Flowchart: Document: Số 
151
24/08/2008
        

 

 

TIN VUI                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

 

 

 

 

 

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

MỤC LỤC

 SỐNG LỜI CHÚA..

Chúa Nhật XXI Thường Niên A..

PHÚC ÂM: Mt 16, 13-20.

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

TỔNG HỢP CÁC TIN TỨC CÔNG GIÁO THẾ GIỚI.

Buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo.

Đức Thánh Cha Cử ĐHY Meisner Làm Đặc Sứ Tại Lituani

Sudan có Đại học Công Giáo đầu tiên.

Kỷ niệm 3 năm thầy Roger Schutz qua đời.

Hai bộ mặt tự do tôn giáo tại Trung quốc trong thời gian Thế vận hội

TIN GIÁO HỘI VIỆT NAM...

Người Công giáo ở miền Nam VN được thúc giục trợ giúp nạn nhân lũ lụt ở miền Bắc.

Phỏng vấn Cha Gioan Baotixita Lê Quang Quý, Trưởng Ban Tổ Chức Đại Hội La Vang 28.

Giới di dân gốc Vinh tại miền Nam mừng lễ quan Thầy.

Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu, tổ chức Lễ Khấn Dòng trọng thể.

Lễ khấn tại Dòng Trinh Vương giáo phận Bùi Chu.

Lễ khấn của các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng TGP Huế.

Đại hội Giới Trẻ giáo phận Phan Thiết ngày 15.08.2008.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh trong thánh lễ khai mạc Đại hội hành hương Thánh Mẫu La Vang 

BÀI GIẢNG..

Ôi Trời Ơi…”.

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN GIÁM MỤC GIÁO PHẬN DALAT TRONG NGÀY HIỀN MẪU GIÁO HẠT BẢO LỘC – 22-8-2008.

Vu lan kính mẹ!

Chìa khóa đời sống.

TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI NỐI KẾT HAI KẺ THÙ THÀNH ANH EM...

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008.

Bài 4 :

NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ TRONG CÁC THƯ PHAOLÔ..

(LE LANGAGE DE LA CROIX DANS LES ÉCRITS PAULINIENS par Chantal Reynier)

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Giảng lễ Hôn Phối :

CĂNG BUỒM...

Táo bón tuổi già.

ĐỌC SÁCH..

GẤU BÔNG CHO NGƯỜI LỚN..

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật XXI Thường Niên A

 

PHÚC ÂM: Mt 16, 13-20

"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Đó là lời Chúa.

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ

 

  1. Đức Giêsu là ai ?

 

Sau khi thấy những việc làm và nghe lời giảng dạy của Đức Giêsu, nhiều người đã đặt câu hỏi về Người, trực tiếp hay gián tiếp. Khi thấy Đức Giêsu làm cho biển lặng sóng yên, các môn đệ trong thuyền ngỡ ngàng bảo nhau : “ Ngài là người nào mà gió và biển phải vâng phục” (Mt 8, 27). Cả Gioan Tẩy Giả cũng sai người đến gặp Đức Giêsu để hỏi lại xem là Người có thật là Đấng Mêsia không (Mt 11, 30. Khi thấy Đức Giêsu trừ quỷ, dân chúng sửng sốt mà nói : ‘Ngài không phải là Con Vua Đavít sao ?” (Mt 12, 23). Lúc Đức Giêsu về làng cũ, Người giảng dạy trong các hội đường, nhưng dân làng không mấy tin vào Người. Họ nói : “ Người không phải là con bác thợ mộc sao ?”  (Mt 13, 55).

 

Như thế chính cuộc sống của Đức Giêsu đã khiến những người quen biết Người phải đặt câu hỏi. Người đặt họ trước một chọn lựa. Để biết Đức Giêsu là ai, cần từ bỏ những hình anh ta vốn có về Người, những hình ảnh do ta tạo ra.

 

Gioan Tẩy Giả phải đổi cái nhìn của mình về Đức Giêsu. Ông đã loan báo một Đấng Mêsia thịnh nộ và đáng sợ, Đấng sàng sảy để tách lúa khỏi thóc lép, Đấng chặt cây không sinh trái và quăng vào lửa (Mt 3, 10.12). Nhưng Đức Giêsu lại không có vẻ gì là Đấng đến để phán xét, diệt trừ người tội lỗi, trái lại Người đến với tội nhân và tỏ lòng thương xót họ. Nếu Gioan cứ giải mã hình ảnh cũ của mình về Đấng Mêsia, ông sẽ có nguy cơ không bắt gặp được Đức Giêsu. Người dân làng Nadarét cũng vậy. Họ đã quá quen với hình ảnh một ông Giêsu làm thợ mộc bên cạnh người cha.Một con người bình thường, làm một nghề bình thường trong mấy chục năm. Thế nên tuy họ hết sức kinh ngạc về lời giảng khôn ngoan và quyền làm phép lạ của Người, họ vẫn không sao tin được Người. Cái biết của củach họ về cậu Giêsu, anh Giêsu, rồi ông Giêsu, lại trở nên một chướng ngại khiến họ không thể có cái biết mới về Đức Giêsu.

 

Tôi cần đi vào mầu nhiệm Đức Giêsu với cái nhìn đơn sơ và trái tim của trẻ thơ, tin rằng mầu nhiệm lớn hơn mình, vượt xa mọi ý nghĩ và mong đợi của mình. Cần hoán cải để biết được Đức Giêsu là ai.

 

  1. Dự luận bảo Con Người là ai ?

 

Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu đặt một câu hỏi như vậy. Người làm một cuộc thăm dò để biết dư luận nghĩ gì về căn tính của Người. Nói chung, người ta coi Người là một ngôn sứ (Mt 23, 11). Họ đặt Người gần với Gioan Tẩy Giả, người đã bị Hêrôđê chém đầu, với Êlia, một đại ngôn sứ mà dân Do Thái coi là người dọn đường cho Đấng Mêsia, với Giêrêmia, một ngôn sứ bị dân ruồng bỏ.

 

Như thế dân chúng cũng đã khám phá ra những nét căn bản nơi con người Đức Giêsu. Người là vị ngôn sứ, người được Thiên Chúa sai đến để nói lời của Thiên Chúa. Nơi giáo huấn của Người, họ thấy có sự can đảm và mạnh mẽ của các ngôn sứ thời Cựu ước. Đức Giêsu mang dáng dấp của một ngôn sứ, nhưng Người không phải là một ngôn sứ đã chết nay sống lại. Người thật là một ngôn sứ và còn hơn một ngốn sứ : “Ở đây còn có người hơn Giôna nữa…Ở đây còn có người hơn Salômôn” (Mt 12, 41- 42).

 

Chẳng những chúng ta cần biết đúng về Đức Giêsu, mà còn cần biết đủ về Người.

 

  1. Còn các anh, các anh bảo Thầy là ai ?

 

Câu hỏi trước dẫn đến câu hỏi này. Các môn đệ là những người đã theo Đức Giêsu một cách gần gũi, và gắn bó với Người hơn dân chúng. Họ đã được Người dạy dỗ cách đặc biệt và chứng kiến nhiều phép lạ. Sau một thời gian dài sống với Thầy Giêsu, giờ đây họ được đặt trước một câu hỏi đụng chạm đến cái nhìn của họ đối với Thầy.

 

Các anh bảo Thầy là ai ? Câu hỏi này đưa các môn đệ về với quá khứ, nhưng cũng chuẩn bị cho họ đón nhận những mạc khải mới của Đức Giêsu về thân phận của Người trong tương lai. Nơi Đức Giêsu đặt câu hỏi là vùng Xêdarê Philip, một vùng bên kia sông Giođan, xa với Galilê. Chúng ta có thể hình dung được bầu khí kín đáo và cảm được sự xúc động của Người khi đặt câu hỏi quan trọng này. Người muốn các môn đệ tự mình nói lên đều họ đã khám phá thấy nơi Người.

 

Tuy nhiên bước đường tìm kiếm và khám phá của các môn đệ lại không phải chỉ là nỗ lực của con người. Đó là quà tặng của Thiên Chúa Cha. Sau khi Phêrô tuyên xưng Người là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu đã cho ông biết rằng với sức riêng, ông không thể nào biết được chuyện đó, nhưng chính Cha của Người đã mạc khải cho ông “không ai biết được Con trừ ra Cha” ( Mt 11, 27), và kẻ được Cha không mạc khải cho.

 

  1. Đối với bản thân tôi, Đức Giêsu là ai ?

 

 

Câu hỏi ngày xưa của Đức Giêsu cho các môn đệ cũng là câu hỏi của Người cho tôi hôm nay. Tôi không thể né tránh câu hỏi này, vì tôi không thể và cũng không nên theo một Đấng mà mình không biết, không yêu mến và khâm phục.

 

Tôi có thể tự đặt cho mình câu hỏi này sau khi đã tin theo Chúa một thời gian 20, 30 năm hay hơn nữa. Tôi có thể đặt câu hỏi này ở mọi chặng đường của cuộc sống, bởi lẽ Đức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng mở ra và lớn mãi trong tôi. Người không thay đổi, nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, tôi lại khám phá những nét mới mẻ nơi con người quá ư phong phú của Người. Người vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, nhưng Người luôn mang những dáng dấp khác nhau khi đến với tôi, để đáp lại những khát vọng sâu thẳm của tôi. Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Người. “Con bảo Thầy là ai ?”. Tôi sẽ sống tuỳ theo câu trả lời của mình.

 

  1. Chứng từ của một số người về Đức Giêsu

 

Các nhà thần học gia gọi Đức Giêsu là “con người mới”  (Tillich) là “ trung tâm của lịch sử cứu độ” ( Cullrnann) là “người bị Cha bỏ rơi”(Pannenberg), là “con người - sống – cho – kẻ khác”(Bonhoeffer)  là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa” (Robinson).

 

Đối với tôi, Đức Giêsu là tất cả, Người đã là và đang là lý tưởng của tôi từ lúc tôi vào Dòng. Người đã là và còn là sức mạnh của tôi. Gạt Đức Giêsu khỏi đời tôi, mọi sự sẽ sụp đổ, giống như một thân xác bị người ta lấy đi bộ xương, quả tim và cái đầu’ ( Pedro  Arrupe, Tổng quyền Dòng Tên).

 

“Đức Giêsu là ai đối với tôi”. Là người đã dám sống trọn vẹn đời người với con người và cho con người, là người đã dám sống và đã chịu chết để khai sinh một xã hội hoàn toàn bình đẳng và huynh đệ đại đồng’(René Adrieu, Tổng biên tập báo L`Hurnanité).

 

Lm. Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Mục lục

 

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

TỔNG HỢP CÁC TIN TỨC CÔNG GIÁO THẾ GIỚI

Buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo

 

Sáng thứ tư 20-8-2008 đã có gần 4000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần với Đức Thánh Cha tại sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo.


Vì sân nhà nghỉ mát chỉ có 2000 chỗ nên phân nửa phải theo dõi ngoài quảng trường trước nhà nghỉ mát. Trong số hàng trăm doàn hành hương năm châu cũng có nhóm 42 tín hữu Việt Nam thuộc giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ở Arlington, bang Virginia Hoa Kỳ, do Linh Mục Gioan Baotixita Ngyễn Đức Vượng, dòng Đa Minh hướng dẫn.


Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc đến vài vị thánh, mà phụng vụ Giáo Hội mừng kính trong các ngày này, và khẳng định rằng ơn gọi nên thánh không phải chỉ được dành riêng cho một số người, nhưng là ơn gọi bình thường của mọi Kitô hữu. Ngài cũng khuyến khích mọi người trong kỳ nghỉ hè đọc tiểu sử và các bút tích của một vài vị thánh để làm quen với các bị bổn mạng của mình trên trời. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:


Anh chị em thân mến. Mỗi ngày Giáo Hội cống hiến cho chúng ta một hai vị thánh hay chân phước để khẩn cầu và bắt chước. Trong tuần này chẳng hạn chúng ta kính nhớ vài vị rất thân thiết với lòng đạo đức bình dân. Hôm qua là lễ thánh Jean Eudes. Chúng ta đang ở trong thế kỷ XVII. Trước khuynh hướng sống đạo cứng nhắc của những người theo Jansen, thánh nhân là người đã thăng tiến một lòng tôn sùng hiền dịu đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ, là hai suối nguồn ơn thánh bất tận. Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh Bênađô thành Clairveaux, mà Đức Giáo Hoàng Pio VIII gọi là ”tiến sĩ chảy mật ong”, vì người rất giỏi rút tỉa ra từ các văn bản kinh thánh ý nghĩa tiềm ẩn trong đó. Vị thánh thần bí này ước muốn sống đắm chìm trong ”thung lũng ánh sáng” của sự chiêm niệm, và đã được các biến cố dẫn đi đó đây trong Âu châu để phục vụ Giáo Hội, trong các nhu cầu thời đại và bênh vực lòng tin Kitô. Người cũng được định nghĩa như là ”tiến sĩ của Mẹ Maria”, không phải vì đã viết nhiều về Đức Mẹ, nhưng vì biết tiếp nhận vai trò nòng cốt của Mẹ trong Giáo Hội, bằng cách giới thiệu Mẹ như là mẫu gương toàn vẹn của cuộc sống viện tu và của mọi hình thức sống Kitô khác.


Ngày mai chúng ta sẽ nhớ thánh Pio X là người đã sống trong một giai đoạn lịch sử chao đảo. Vì thế nên khi viếng thăm quê sinh của người hồi năm 1985, Đức Gioan Phoalo II đã nói: ”Người đã chiến đấu và đau khổ vì sự tự do của Giáo Hội, và vì sự tự do đó người sẵn sàng hy sinh các đặc ân đặc lợi và danh dự, phải đương đầu với sự hiểu lầm và chế nhạo, vì người coi sự tự do đó là như là sự bảo đảm cuối cùng cho sự toàn vẹn và trung thực của lòng tin” (Insegnamenti di Giovanni Paolo II, VIII, 1, 1985, tr.1818).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói thứ sáu tới đây là lễ kính Đức Mẹ Maria Trinh Nữ Vương, do vị tôi tớ Chúa Đức Pio XII thành lập năm 1955, và việc canh cải phụng vụ đo Công Đồng Chung Vaticăng II đã bổ túc cho lễ trọng Đức Mẹ hồn xác lên trời, vì hai đặc ân này làm thành cùng một mầu nhiệm.

Thứ bẩy chúng ta sẽ cầu nguyện với thánh nữ Rosa thành Lima, là vị thánh đầu tiên của châu Mỹ Latinh và là thánh Bổn Mạng chính của vùng này. Thánh nữ hay lập đi lập lại: ”Nếu người ta biết được sống trong ơn thánh có nghĩa là gì, thì người ta sẽ không hoảng sợ trước bất cứ nỗi khổ đau nào, và sẽ sẵn sàng chịu đựng bất cứ sự vất vả nào, bởi vì ơn thánh là hoa trái của sự kiên nhẫn”. Sau một cuộc sống ngắn ngủi đầy hy sinh hãm mình và khổ đau, thánh nữ chết năm 1617 thọ 31 tuổi, trong chính ngày lễ thánh Bartolomeo tông đồ, rất được thánh nữ sùng kính vì người đã chịu tử đạo rất đau đớn.


Anh chị em thân mến, như thế mỗi ngày Giáo Hội cống hiến cho chúng ta khả thể đồng hành với các thánh. Thần học gia Urs von Balthasar nói rằng các thánh là lời bình luận quan trọng nhất của Phúc Âm, là việc thời sự hóa Phúa Âm mỗi ngày, và vì thế các vị là con đường dẫn chúng ta tới với Chúa Giêsu. Văn sĩ Pháp Jean Guitton miêu tả các thánh như ”mầu sắc của tấm kính đối với ánh sáng”, vì mỗi vị phản chiếu ánh sáng sự thánh thiện của Thiên Chúa với các cường độ khác nhau. Vì thế dấn thân vun trồng sự hiểu biết và sùng kính các thánh, bên cạnh việc suy niệm Lời Chúa mỗi ngày và lòng yêu mến Mẹ Maria, thật là điều quan trọng và thích hợp biết bao!


Tiếp đến Đức Thánh Cha nói mùa hè chắc chắn là thời gian hữu ích để đọc tiểu sử và các bút tích của một vị thánh nam nữ đặc biệt, nhưng mỗi ngày trong năm đều cống hiến cho chúng ta cơ may làm quen với các vị bổn mạng của chúng ta trên trời. Rồi ngài khẳng định như sau:


Kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng của các vị cho thấy rằng sự thánh thiện không phải là một xa xỉ phẩm, không phải là đặc quyền cho ít người, nhưng là số phận chung của tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa, là ơn gọi đại đồng của tất cả mọi người đã được rửa tội. Sự thánh thiện được cống hiến cho tất cả mọi người, cả khi không phải mọi vị thánh đều như nhau. Và vị thánh lớn nhất không nhất thiết phải có các đặc sủng phi thường. Thật ra có rất nhiều vị thánh, mà tên tuổi chỉ có Thiên Chúa biết, vì trên trần gian này các vị đã có một cuộc sống bề ngoài xem ra rất bình thường. Gương của các vị làm chứng cho thấy rằng chỉ khi tiếp xúc với Chúa chúng ta mới được tràn đầy sự bình an và niềm vui, và có thể phổ biến khằp nơi sự an bình và lạc quan. Khi duyệt xét các đặc sủng khác nhau của các thánh nhà văn Bernanos, là người đã luôn luôn bị các thánh lôi cuốn, đã kể tên rất nhiều vị trong các tiểu thuyết của mình. Ông ghi nhận như sau: ”Cuộc sống của mỗi một vị thánh giống như một mùa hoa mới của mùa xuân”. Ước gì điều đó cũng xảy ra đối với từng người trong chúng ta! Vì thế chúng ta hãy để cho mình bị sức lôi cuốn siêu nhiên của sự thánh thiện cuốn hút! Xin Mẹ Maria là Nữ Vương các Thánh, là Mẹ và là Nơi Nương Náu của kẻ tội lỗi, bầu cử cho chúng ta được ơn đó!


Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.


Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu hiện diện bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Đồ Đào Nha, Ba Lan, Slovac và Ý. Ngài đã đặc biệt chào một nhóm Tiểu Muội Chúa Giêsu đang dọn mình khấn trọn đời. Chào nhóm tín hữu Ba Lan ngài nói tuần qua các cơn bão lớn ập trên Ba Pan đã khiến cho nhiều người chết và bị thương, và biết bao nhiêu người phải mất gia cư sản nghiệp. Đức Thánh Cha tỏ tình liên đới và gần gữi họ trong lời cầu nguyện.


Sau đó ngài ra bao lơn mặt tiền dinh thự nghỉ mát quay ra quảng trường phía trước để chào 2000 người khác theo dõi buổi tiếp kiến từ đâu, vì không đủ chỗ trong sân nhà nghỉ mát. Ngài cám ơn mọi người về sự hiện diện của họ và cầu chúc mọi người một mùa hè khỏe mạnh và một tuần tươi vui.

Mục lục

 

Đức Thánh Cha Cử ĐHY Meisner Làm Đặc Sứ Tại Lituani

 

VATICAN 22/8/08. ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm ĐHY Joachim Meisner, TGM giáo phận Koeln bên Đức, làm Đặc Sứ của ngài đến chủ sự các lễ nghi mừng kỷ niệm 400 năm Đức Mẹ hiện ra tại Đền thánh Siluva bên Lituani, sẽ được cử hành trong hai ngày 13 và 14-9 tới đây.

 

Đền thánh này được thành lập năm 1457, tức là cách đây 650 năm, ít lâu sau khi Kitô giáo được truyền giáo Lituani. 250 năm sau đó, tức là cách đây 400 năm, giữa lúc dân nước Lituani ngả theo Tin Lành, Cách đây 400 năm, Đức Mẹ đã hiện ra với những người chăn đoàn vật dưới hình một thiếu nữ bồng con và đang khóc. Khi được hỏi lý do, Đức Mẹ đã giải thích đó là vì dân Lituani đã bỏ theo Tin Lành.

 

Qua dòng thời gian, Đền thánh Đức Mẹ Siluva trở thành biểu tượng đức tin Công Giáo, sự trở về với Giáo Hội Công Giáo sau khi ngả theo Tin Lành, và nhất là Đền Thánh này trở thành thành trì chống lại sự thống trị của chế độ cộng sản vô thần trong thế kỷ 20, khi Lituani ở dưới sự đô hộ của Liên Xô.

 

Tại Vương cung thánh đường Siluva có tôn kính bức ảnh Đức Mẹ ẵm Chúa Hài Đồng, hàng trăm phép lạ đã xảy ra tại đây. Năm 1993, ĐTC Gioan Phaolô 2 đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Siluva, và cách đây 2 năm, ĐTC Biển Đức 16 đã làm phép triều thiên mới để đội trên tượng ảnh Đức Mẹ tại đây

Mục lục

 

Sudan có Đại học Công Giáo đầu tiên

 

Juba, Sudan (MISNA) - Cha Michael Schultheis, điều hợp viên dự án đại học của Trung tâm phục vụ người tị nạn Dòng Tên phát biểu trên Radio Bakhita về Đại học Công Giáo đầu tiên của Sudan: “Những sinh viên đầu tiên đã được tuyển sinh, các giáo sư cũng sẵn sàng và các lớp cũng đã được thiết kế thích hợp cho sinh viên năm nhất của Đại Học Công Giáo Sudan ở Juba, miền Nam Sudan”.

 

Bộ Giáo dục đã gởi cấp phép mở trường, và mọi việc đã sẵn sàng để bắt đầu niên học mới vào tháng Chín tới. Cha Schultheis cũng cho hay thêm Juba là trụ sở của phân khoa Khoa học xã hội và nhân văn; thành phố Wau, cách Juba 500 cấy số về hướng Tây Bắc, sẽ là trụ sở của phân khoa nông nghiệp và xây dựng; trong khi đó Khartoum sẽ có các khoa khác từ năm 2010.

 

Cha Schultheis là người đã giúp thành lập đại học Công Giáo ở Mozambique năm 1995 và ở Ghana năm 2002, ngài cho biết thêm: “Đối với năm đầu tiên, chúng tôi mong đặt tầm quan trọng đặc biệt về ngôn ngữ học và truyền thông cũng như về toán học và khoa học máy tính”

Mục lục

 

 

Kỷ niệm 3 năm thầy Roger Schutz qua đời.

 

Tin Vatican (SD 14-8-2008) - Bài Phỏng vấn Ðức Hồng Y Walter Kasper, nhân kỷ niệm ba năm thầy Roger Schutz qua đời.

 

Ngày 16-8-2008 là kỷ niệm 3 năm thầy Roger Schutz, Bề trên tu viện đại kết Taizé qua đời. Ngày 16 tháng 8 năm 2005 thầy Roger Schutz đã bị một phụ nữ bất bình thường tâm trí đâm chết trong buổi cầu nguyện ban chiều tại Taizé. Ðã có 12,000 người tham dự đám táng của thầy do Ðức Hồng Y Walter Kasper, Chủ tịch Hôi đồng tòa thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, chủ sự.

 

Thầy Roger Schutz sinh năm 1915 bên Thụy Sĩ. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ Roger ước muốn noi gương bà ngoại từng trợ giúp các người tị nạn hồi thế chiến thứ I. Anh tìm đến sống tại Taizé trong vùng Bourgogne bên Pháp và bắt đầu giúp đỡ người tị nạn chiến tranh. Cộng đoàn đại kết Taizé bắt đầu nảy sinh từ đó. Taizé trở thành nơi thu hút giới trẻ tới sống kinh nghiệm cầu nguyện, tình yêu thương huynh đệ đại đồng và sự hiệp nhất.

 

Hằng năm thầy Roger vẫn tổ chức cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Âu châu và quốc tế vào những ngày cuối năm và đầu năm mới. Thầy đã được nhiều giải thưởng như: giải thưởng Templeton, tương đương với giải thưởng Nobel tôn giáo năm 1974, giải thưởng giáo dục hòa bình của UNESCO năm 1988, giải thưởng Charlemagne của Âu châu năm 1989, giải thưởng Robert Schuman của Âu châu năm 1992.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Ðức Hồng Y Walter Kasper về gương mặt của thầy Roger Schutz.

 

Hỏi: Thưa Ðức Hồng Y, 3 năm đã trôi qua kề từ cái chết thê thảm của thầy Roger Schutz. Chính Ðức Hồng Y đã chủ sự đám táng của thầy. Ðối với Ðức Hồng Y thầy Roger là ai?

 

Ðáp: Cái chết của thầy Roger đã khiến cho tôi rất cảm động. Lúc đó tôi đang tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Koeln bên Ðức, thì nhận đựơc tin thầy qua đời, nạn nhân của một hành động bạo lực. Cái chết của thầy khiến tôi nhớ tới lời ngôn sứ Isaia viết về Người tôi tớ của Chúa: "Bị ngược đãi người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miêng" (Is 53,7).

 

Trong suốt cuộc đời mình thầy Roger đã theo con đường của Chiên Con, với sự hiền dịu và khiêm tốn, với việc khước từ mọi cử chỉ to lớn, với quyết định không nói xấu ai, với ước mong mang trong con tim các nỗi khổ đau và niềm hy vọng của nhân loại. Ít người trong thế hệ chúng ta đã nhập thể được gương mặt dịu hiền và khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô với sự trong sáng như thầy Roger. Trong một thời đại giao động đối với Giáo Hội và lòng tin Kitô thầy Roger đã là một suối nguồn hy vọng được mọi người thừa nhận. Như là giáo sư thần học và là Giám Mục Rottenburg Stuttgart, tôi đã luôn luôn khuyến khích người trẻ đến Taizé sống ít ngày trong mùa hè. Tôi biết thời gian sống gần thầy Roger và cộng đoàn đại kết giúp người trẻ hiểu biết và sống lời Chúa nhiều hơn, trong tươi vui và trong sự đơn sơ. Tất cả những điều này tôi đã cảm nhận sâu đậm hơn, khi chủ sự lễ an táng của thầy trong nhà thờ Hòa Giải ở Taizé.

 

Hỏi: Theo Ðức Hồng Y, đâu là phần đóng góp của thầy Roger và của cộng đoàn Taizé cho cuộc đối thoại đại kết?

 

Ðáp: Sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô chắc chắn là một trong các ước mong sâu xa nhất của tu viện trưởng tu viện đại kết Taizé, cũng như sự chia rẽ giữa các tín hữu Kitô đã khiến cho thầy đau khổ nhất. Thầy Roger đã là một con người của sự hiệp thông, không bao giờ chịu được bất cứ hình thức chống đối hay cạnh tranh nào giữa các người hay các cộng đoàn với nhau.

 

Khi thầy đề cập tới sự hiệp nhất của các Kitô hữu và các cuộc gặp gỡ của thầy với đại diện các truyền thống Kitô khác nhau, cái nhìn và tiếng nói của thầy làm cho người ta hiểu thầy ước ao "tất cả mọi người nên một" với lòng bác ái và niềm hy vọng sâu đậm biết bao. Tìm kiếm sự hiệp nhất đã là sợi chỉ hướng dẫn cả những lựa chọn cụ thể nhất trong cuộc sống thường ngày: tiếp nhận mọi hoạt động có thể giúp Kitô hữu thuộc các truyền thống khác nhau xích lại gần nhau, tránh mọi cử chỉ lời nói có thể làm chậm trễ sự hòa giải giữa họ với nhau. Thầy thi hành sự phân định ấy với tất cả sự chú ý đến như tỉ mỉ. Tuy nhiên trên con đường kiếm tìm hiệp nhất ấy thầy Roger đã không vội vã hay nóng nảy. Thầy biết sự kiên nhẫn của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ và trong lịch sử Giáo Hội. Thầy đã không bao giờ có các cử chỉ không thể chấp nhận đối với các Giáo Hội, cũng như không bao giờ mời gọi các bạn trẻ xa rời các chủ chăn của họ. Thấy nhắm tới chiều sâu hơn là sự phát triển nhanh chóng của phong trào đại kết.

 

Thầy xác tín rằng chỉ khi được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và việc cử hành bí tích Thánh Thể, lời cầu nguyện và sự chiêm niệm phong trào đại kết mới có khả năng quy tụ các Kitô hữu trong sự hiệp nhất như Chúa Giêsu muốn. Và đó là phần đóng góp của thầy Roger và cộng đoàn Taizé cho phong trào đại kết.

 

Hỏi: Thưa Ðức Hồng Y, thầy Roger thường miêu tả con đường đại kết của thầy như là một "sự hòa giải nội tâm của gốc rễ lòng tin của thầy với mầu nhiệm lòng tin công giáo, mà không có sự bẻ gẫy hiệp thông với bất cứ ai". Lộ trình đó không thuộc các phạm trù bình thường. Sau khi thầy qua đời cộng đoàn Taizé đã phủ nhận tin cho rằng thầy Roger đã bí mật theo Công Giáo. Các lời đồn thổi ấy phát xuất từ sự kiện người ta trông thấy thầy lên rước lễ từ tay Ðức Hồng Y Ratzinger trong thánh lễ an táng Ðức Gioan Phaolo II. Ðức Hồng Y nghĩ gì về kiểu nói thầy Roger đã là tín hữu công giáo "một cách hình thức"?

 

Ðáp: Sinh ra trong gia đình tin lành cải cách, thầy Roger đã theo học thần học và trở thành mục sư tin lành cải cách. Khi thầy đề cập đến "lòng tin của hai nguồn gốc", thầy ám chỉ giáo lý, lòng đạo đức, việc đào tạo thần học và chứng tá Kitô đã nhận được trong truyền thống tin lành cải cách. Thầy chia sẻ gia tài đó với tất các các anh chị em tin lành, và và luôn luôn cảm thấy gắn bó sâu xa với họ.

 

Tuy nhiên ngay từ những năm là mục sư trẻ, thầy Roger đã luôn tìm nuôi dưỡng lòng tin và cuộc sống tinh thần của mình nơi nguồn mạch của các truyền thống Kitô khác, và như thế vượt ngoài một vài ranh giới Giáo Hội. Ước mong theo đuổi ơn gọi viện tu và thành lập một cộng đoàn mới với các tín hữu tin lành cải cách của thầy chứng minh cho thấy sự tìm kiếm đó. Với thời gian lòng tin của thầy từ từ thêm phong phú với gia tài lòng tin của Giáo Hội Công Giáo.

 

Theo chứng từ của thầy, chính khi tham chiếu lòng tin công giáo mà thầy đã hiểu biết một vài dữ kiện lòng tin, như vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria trong lịch sử cứu độ, sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong các ơn thánh thể và chức thừa tác tông đồ trong Giáo Hội, bao gồm cả thừa tác hiệp nhất của Giám Mục Roma. Ðáp lại, Giáo Hội Công Giáo chấp nhận để cho thầy rước lễ, như thầy vẫn làm mỗi sáng trong nhà thờ tại Taizé.

 

Thầy Roger cũng đã nhiều lần nhận Mình Thánh Chúa từ tay Ðức Gioan Phaolô II, là người đã có các tương quan bằng hữu với thầy từ thời Công Ðồng Chung Vaticăng II và biết rõ con đường lòng tin công giáo của thầy. Trong nghĩa này đã không có bí mật hay điều dấu ẩn nào trong thái độ của Giáo Hội Công Giáo tại Taizé cũng như tại Roma. Trong lễ an táng Ðức Gioan Phaolô II Ðức Hồng Y Ratzinger cũng đã chỉ lặp lại những gì Ðức Gioan Phaolô II làm trước đó trong đền thờ thánh Phêrô. Ðã không có gì mới mẻ hay dự tính trước trong cử chỉ của Ðức Hồng Y.

 

Trong cuộc gặp gỡ giới trẻ Âu châu tại Roma năm 1980, thầy Roger đã hướng tới Ðức Gioan Phaolô II và miêu tả đường đi và căn cước của thầy như sau: "Con đã tìm thấy căn cước Kitô bằng cách hòa giải trong mình lòng tin của các gốc rễ của mình với lòng tin công giáo, mà không bẻ gẫy sự hiệp thông với bất cứ ai". Thật thế thầy Roger đã không muốn bẻ gẫy "với bất cứ ai", vì các lý do nòng cốt gắn liền với ước muốn hiệp nhất và ơn gọi đại kết của cộng đoàn Taizé. Vì vậy thầy không muốn sử dụng vài từ như "hoán cải" hay gắn bó "hình thức" để định tính sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo.

 

Có thể thảo luận dài về ý nghĩa của vài từ thần học hay giáo luật. Nhưng để tôn trọng con đường lòng tin của tu viện trưởng tu viện Taizé, tốt hơn hết là không nên áp dụng cho thầy các phạm trù mà chính thầy cho là không thích hợp đối với kinh nghiệm của thầy. Vả lại Giáo Hội công giáo cũng đã không bao giờ áp đặt điều đó. Lời nói của thầy là đủ cho chúng ta rồi.

 

Hỏi: Ðức Hồng Y có trông thấy các mối dây nối kết ơn gọi đại kết của Taizé và cuộc hành hương của hàng chục ngàn người trẻ về ngôi làng của vùng Bourgogne này không? Theo Ðức Hồng Y người trẻ có nhậy cảm đối với sự hiệp nhất hữu hình của các Kitô hữu không?

 

Ðáp: Theo tôi, sự kiện mỗi năm hàng ngàn người trẻ còn tìm đường tiến về đồi Taizé thực là một ơn Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội ngày nay. Ðối với nhiều bạn trẻ, Taizé là nơi đầu tiên và chính yếu, nơi họ có thể gặp gỡ người trẻ của các Giáo Hội và các cộng đoàn Kitô khác. Tôi rất hài lòng thấy trong mỗi mùa hè, các bạn trẻ đầy chật các lều của Taizé, và họ đến từ nhiều nước Ðông và Tây âu cũng như từ các đại lục khác. Họ thuộc nhiều Giáo Hội khác nhau tin lành, công giáo và chính thống, và được các linh mục hay chủ chăn của họ hướng dẫn. Nhiều bạn trẻ đến từ các nước có nội chiến hay các xung khắc bạo lực, thường là trong qúa khứ mới đây. Nhiều bạn trẻ khác đến từ những vùng phải sống nhiều thập niên đưới ách thống trị của ý thức hệ duy vật. Người khác nữa, có lẽ là đa số, thì sống trong các xã hội ghi đậm dấu vết của sự tục hóa và thờ ơ tôn giáo. Tại Taizé trong các lúc cầu nguyện và chia sẻ kinh thánh, họ tái khám phá ra ơn hiệp thông và tình bạn mà Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể cống hiến cho họ. Khi lắng nghe Lời Chúa, họ tái khám phá ra sự giầu có duy nhất đã được ban cho họ qua bí tích rửa tội.

 

Vâng, tôi tin rằng nhiều người trẻ ý thức được vai trò thực của sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Họ biết gánh nặng của các chia rẽ còn có thể đè nặng trên chứng tá của các tín hữu Kitô và trên việc xây dựng một xã hội mới. Tại Taizé họ tìm được một dụ ngôn cộng đoàn giúp thắng vượt các đổ vỡ trong qúa khứ và nhìn về một tương lai hiệp thông và tình bạn. Khi họ trở về nhà, kinh nghiệm đó giúp họ tạo ra các nhóm cầu nguyện và chia sẻ trong môi trường sống của họ, để nuôi dưỡng ước mong hiệp nhất ấy.

 

Hỏi: Thưa Ðức Hồng Y, trước khi là Chủ tịch của Hội Ðồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, Ðức Hồng Y đã là Giám Mục giáo phận Rottenburg Stuttgart và với danh nghĩa đó hồi năm 1996 Ðức Hồng Y đã tiếp đón một cuộc gặp gỡ của giới trẻ Âu châu do cộng đoàn Taizé tổ chức. Các cuộc gặp gỡ này đem lại gì cho cuộc sống của Giáo Hội, thưa Ðức Hồng Y?

 

Ðáp: Cuộc gặp gỡ hồi đó đã đem lại cho giáo phận của tôi sự tươi vui và sức sống tinh thần sâu đậm, đặc biệt cho các giáo xứ tiếp đón người trẻ đến từ nhiều nước khác nhau. Các cuộc gặp gỡ này xem ra vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của Giáo Hội. Nhiều người trẻ sống trong các xã hội tục hóa, nên khó tìm ra các bạn đồng hành trên con đường lòng tin và cuộc sống Kitô. Họ cũng có ít dịp để đào sâu và cử hành lòng tin trong tươi vui và an bình. Các Giáo Hội địa phương đôi khi gặp khó khăn trong việc đồng hành với giới trẻ trên con đường tinh thần của họ. Chính vì thế nên các cuộc gặp gỡ lớn như các cuộc gặp gỡ do cộng đoàn Taizé tổ chức, đáp ứng được một nhu cầu mục vụ thực sự. Dĩ nhiên cuộc sống Kitô cần thinh lặng và tĩnh mịch, như Chúa Giêsu nói: "Hãy đóng cửa phòng mà cầu nguyện với Cha con, là Ðấng trông thấy con trong bí ẩn" (Mt 6,6). Nhưng nó cũng cần sự chia sẻ, gặp gỡ và trao đổi.

 

Qua bí tích rửa tội chúng ta thuộc về cùng một thân thể của Chúa Kitô phục sinh. Thần Khí là linh hồn và hơi thở làm cho thân xác này sống động và lớn lên trong sự thánh thiện. Ngoài ra các Phúc Âm thường cho biết một đám đông dân chúng thường đến từ rất xa, để nhìn xem và lắng nghe Chúa Giêsu và để được Chúa chữa lành. Các cuộc gặp gỡ lớn ngày nay cũng theo cùng một sức sinh động đó. Chúng cho phép giới trẻ tiếp nhận một cách tốt hơn mầu nhiệm Giáo Hội như là sự hiệp thông, cùng nhau lắng nghe lời Chúa Giêsu và tín thác nơi Ngài.

 

Hỏi: Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa Taizé như là "mùa xuân nhỏ". Ðàng khác thầy Roger cho biết Ðức Roncalli đã là người gây ra nơi thầy nhiều ấn tượng nhất. Theo Ðức Hồng Y, tại sao vị Giáo Hoàng đã có trực giác về Công Ðồng Chung Vaticăng II và người sáng lập cộng đoàn Taizé lại qúy mến nhau như vây?

 

Ðáp: Mỗi lần tôi gặp thầy Roger, thì đều nghe thầy kể về tình bạn đã có với Ðức Gioan XXIII, Ðức Phaolô VI và Ðức Gioan Phaolô II. Với lòng biết ơn và niềm vui Thầy kể lại các cuộc gặp gỡ và đàm đạo với các vị. Một đàng thầy cảm thấy rầt gần gũi với các Giám Mục Roma trong dấn thân hướng dẫn Giáo Hội Chúa Kitô trên con đường canh tân tinh thần, hiệp nhất các Kitô hữu, phục vụ người nghèo, làm chứng cho Tin Mừng. Ðàng khác thầy cảm thấy được các Giáo Hoàng nâng đỡ trên con đường tinh thần cá nhân và trong hướng đi của cộng đoàn Taizé non trẻ. Ý thức hành động hài hòa với tư tưởng của Giám Mục Roma đã là địa bàn cho thầy trong mọi hoạt động. Thầy đã không bao giờ đưa ra sáng kiến nào ngược lại với lời khuyên và ý kiến của Ðức Giáo Hoàng. Ngoài ra thầy cũng có cùng tương quan tin tưởng đó với Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI. Ðức Thánh Cha đã có những lời rất cảm động liên quan tới cái chết của thầy Roger. Và hằng năm Ðức Thánh Cha vẫn tiếp kiến người kế vị là thầy Alois.

 

Sự qúy mến giữa thầy Roger và các Giám Mục Roma chắc chắn nảy sinh từ chiều kích nhân bản và sự phong phú tinh thần của cả hai bên. Nói cho cùng nó phát xuất từ Chúa Thánh Thần, là Ðấng soi sáng cho nhiều người khác nhau trong cùng một lúc vì thiện ích của Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô. Khi Chúa Thánh Thần nói, thì tất cả mọi người đều hiểu cùng sứ điệp đó, mỗi người trong tiếng nói của mình. Ðấng đích thực hoạt động cho sự hiểu biết và tình huynh đệ giữa các môn đệ của Chúa Kitô là chính Thần Khí của sự hiệp thông.

 

Hỏi: Ðức Hồng Y quen biết thầy Alois người kế vị thầy Roger trong chức tu viện trưởng cộng đoàn đại kết Taizé. Ðức Hồng Y thấy tương lai của cộng đoàn như thế nào?

 

Ðáp: Cả khi trong qúa khứ tôi đã gặp thầy Alois, nhưng chỉ sau cái chết của thầy Roger tôi mới thực sự biết thầy Alois nhiều hơn. Vài năm trước thầy Roger có cho tôi biết là đã sắp xếp mọi sự cho việc kế vị khi cần tới. Và thầy rất hài lòng khi thầy Alois lên thay thế thầy. Nhưng đâu có ai tưởng tượng được rằng sự thay thế đã chỉ xảy ra nội trong một đêm, sau hành động bạo lực chưa từng thấy đó? Từ đó đến nay điều khiến tôi ngạc nhiên đó là sự tiếp nối trong cuộc sống của cộng đoàn Taizé và trong việc tiếp đón người trẻ. Các buổi cử hành phụng vụ, cầu nguyện, và tiếp đón diễn ra trong cùng một tinh thần như một bài ca không bao giờ dứt. Ðiều này chứng minh cho thấy con người của tân tu viện trưởng cũng như sự trưởng thành nhân bản và tinh thần của toàn cộng đoàn Taizé.

 

Cộng đoàn đã thừa hưởng gia tài từ thầy Roger, tiếp tục sống và giãi tỏa đặc sủng đó ra. Tôi hoàn toàn tin tưởng nơi tương lai của cộng đoàn Taizé và sự dấn thân của cộng đoàn cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Sự tin tưởng này cũng phát xuất từ Chúa Thánh Thần, là Ðấng không dấy lên các đặc sủng để bỏ rơi các đặc sủng đó. Thần Khí Chúa luôn luôn mới mẻ và liên tục hoạt động trong một ơn gọi và một sứ mệnh. Chính Ngài sẽ giúp cộng đoàn Taizé tiếp tục sống và phát triển ơn gọi của mình, trung thành với mẫu gương thầy Roger đã để lại.

 

Các thế hệ qua đi, nhưng đặc sủng tồn tại, vì nó là món qùa và là công trình của Chúa Thánh Thần. Và tôi muốn lập lại với thầy Alois và toàn cộng đoàn Taizé sự qúy mến của tôi đối với tình bạn, cuộc sống cầu nguyện và ước muốn hiệp nhất của cộng đoàn. Nhờ các thầy mà gương mặt dịu hiền của thầy Roger tiếp tục thân thiết với chúng ta.

 

Hai bộ mặt tự do tôn giáo tại Trung quốc trong thời gian Thế vận hội

 

Bắc kinh (AsiaNews) – Có hai tiêu chuẩn song hành: Trong lúc những người ngoại quốc cư ngụ trong làng Thế vận được hưởng đầy đủ (hay gần như đầy đủ) tự do tôn giáo, thì Giáo hội công khai và Giáo hội hầm trú tại Trung quốc bị đặt dưới sự canh chừng chặt chẽ của cả công an lẫn Hội Yêu nước, để “tránh các buổi tụ tập đông người” và “bảo đảm an ninh” trong thời gian Thế vận hội.


Như lời hứa của chính quyền Trung quốc, có cả một khu vực trong làng Thế vận dành riêng cho vấn đề tâm linh và cầu nguyện. Các tín hữu Công giáo và Tin lành chung nhau một khoảng không gian; cũng còn chỗ dành cho Phật tử, tín đồ Hồi giáo, Ấn giáo và Do thái giáo. Người ta còn săn sóc đến cả phẩm chất của những thực phẩm dành cho người hành đạo: đồ ăn chay, halal (thực phẩm theo tiêu chuẩn Hồi giáo), kosher (thực phẩm theo tiêu chuẩn Do thái giáo)… Một số đoàn tham dự Thế vận hội còn có riêng vị tuyên úy để cử hành lễ nghi, gặp gỡ tín đồ, và tự do giảng dậy, v.v…


Các vị tuyên úy Trung quốc hiện diện trong khu vực cho biết còn có cả những nghi lễ được sự tham dự của người ngoại quốc và tín đồ Trung quốc. Tuy nhiên, tất cả những hoạt động đó đều nằm trong phạm vi ngôi làng Thế vận khép kín, chỉ những người đã ghi danh hoặc những ai tháp tùng họ mới được vào.


Khách du lịch người nước ngoài nói chung được đối xử rất mực hào phóng, ngay cả nếu có một vài trường hợp ngoại lệ. Một nhóm người Kitô giáo Mỹ bị chặn lại tại Côn Minh (Vân nam) vì lý do mang theo 300 bản Kinh thánh. Luật lệ Trung quốc cấm nhập cảng các sách về tôn giáo quá số lượng cần thiết dành cho việc sử dụng cá nhân.


Vì có du khách người nước ngoài trong thành phố, tại Dong Tang (giáo xứ thánh Giuse) và Bei Tang (giáo xứ St. Saviour) đã có các linh mục nói tiếng mẹ đẻ dâng thánh lễ bằng tiếng Đức và tiếng Ý. Một số giáo dân Trung quốc cũng đến tham dự các nghi thức này. Cho đến nay, không rõ sự tự do này sẽ còn tiếp tục sau Thế vận hội hay không. Một linh mục Trung quốc cho AsiaNews biết chính quyền sẽ cứu xét khả năng trong tương lai về các “vấn đề an ninh”. Cho đến nay các thánh lễ bằng nhiều ngôn ngữ được những vị chủ tế người nước ngoài cử hành tại các sứ quán (trong những khu vực “được đặc quyền ngoại giao” ), nhưng đó là nơi người Trung quốc không được phép đến, vì công an địa phương kiểm soát và ghi thông hành của tín đồ khi họ ra vào sứ quán.


Nỗ lực tách rời tín đồ Trung quốc ra khỏi người đồng đạo nước ngoài là một phần trong kế hoạch toàn bộ của Hội Yêu nước nhằm thiết lập một giáo hội quốc doanh, tách biệt ra khỏi mọi người khác. Đó là lý do tại sao, mặc dầu đã có những chỉ trích nặng nề chính quyền Trung quốc về chính sách kiểm duyệt internet, nhiều websites với những trang viết bằng tiếng Tầu vẫn còn bị ngăn chận không cho truy cập, trong số đó có: Đài Phát thanh Vatican, AsiaNews, các mạng lưới của Giáo hội ở HongKong, Hàn quốc, Singapore…

Vấn đề “an ninh” đã từ lâu khống chế khung cảnh xã hội Trung quốc, nơi vì tham nhũng, ô nhiễm môi trường, chiếm đoạt tài sản, có từ 200 đến 300 các vụ phản kháng nổ ra mỗi ngày, nhưng thay vì truy nguyên lý do phát sinh ra các vụ đụng độ đó, chính quyền chọn cách bắt giữ người biểu tình, bắn vào đám đông, và dẹp tan các vụ tụ tập. Trong thời gian Thế vận hội, bằng quyền hành của mình, Trung quốc làm mọi cách để khoác lên một bộ mặt tân tiến và tự do, nhưng trong nỗ lực đề cao hình ảnh đó, chính quyền đã cấm đoán mọi cuộc phản kháng như biểu tình và đưa kiến nghị, cấm mọi hình thức phát biểu công khai của những tiếng nói bất đồng. Cộng đồng Thiên chúa giáo cũng phải trả giá cho sự cấm đoán đó, mặc dầu chưa có người tín hữu Thiên chúa giáo nào bị kết án có hành vi bạo động chống lại nhà nước.


Trước thời gian Thế vận hội, tất cả các giám mục và linh mục thuộc giáo hội quốc doanh đã nhận được thư và khuyến cáo không được tổ chức các cuộc tập họp và nghi lễ đặc biệt trong thời gian có các cuộc tranh tài. Nếu trước đây đã có kế hoạch tổ chức như thế thì số người tham dự không được quá 200 và thời gian phải càng ngắn càng tốt. Vì lý do này, nhiều linh mục sợ giữ giáo hữu quá lâu trong nhà thờ, đã chọn cách bỏ bớt bài giảng, ngay cả thánh lễ ngày Chủa nhật.


Theo nguồn tin AsiaNews nhận được, tình hình giáo hội chui còn tồi tệ hơn nữa: ngoài những vị giám mục đã bị mất tích từ lâu, trong các tuần lễ vừa qua, nhiều giám mục và linh mục bị giam giữ tại gia và giáo dân bị đe dọa không được tổ chức hội họp dưới bất cứ hình thức nào trong thời gian này, nếu không “sẽ có hậu quả sau thời gian Thế vận hội.”

Tại Hà bắc (Hebei) giám mục Giulio Jia Zhiguo giáo phận Zhengding bị canh chừng ngày đêm. Công an còn dựng lều ngay trước nhà ngài, thay phiên nhau kiểm soát không cho ngài được gặp bất cứ ai.


Ngay cả tại Thiên tân (Tianjin), các giám mục và linh mục cũng bị giam giữ tại gia. Các tín hữu được “kêu gọi” không đón tiếp bất cứ linh mục chui nào, nếu không sẽ bị phạt vạ nặng nề. Tại nhiều nơi, các cộng đồng thường tổ chức những khóa học hỏi giáo lý cho thanh thiếu niên vào mùa hè, nay bị bắt buộc phải hủy bỏ mọi chương trình. Các linh mục khác được công an “khuyên” đi nghỉ hè để giữ cho các vị đó cách xa cộng đoàn.


Cảm tưởng của nhiều quan sát viên là Trung quốc muốn trình bày một bộ mặt cởi mở và tự do cho thế giới bên ngoài thấy, nhưng bên trong, họ tiếp tục kiểm soát và hạn chế. Để khoa trương hình ảnh của một “thiên đường” tự do tôn giáo, tờ báo bán chính thức của nhà nước bằng Anh ngữ - China Daily – được hầu hết du khách tìm đọc, trong thời gian này đã đăng tải một loạt những bài tường trình về các thánh đường tại Bắc Kinh và lịch sử của những ngôi thánh đường đó.

Mục lục

 

TIN GIÁO HỘI VIỆT NAM

Người Công giáo ở miền Nam VN được thúc giục trợ giúp nạn nhân lũ lụt ở miền Bắc

 

SAIGON, Việt Nam (UCAN 18-8-2008) -- Người Công giáo ở Saigon được kêu gọi tiết kiệm chi tiêu hàng ngày để góp tiền ủng hộ hàng ngàn người bị ảnh hưởng các trận lũ gần đây ở miền Bắc.

Theo các phương tiện truyền thông nhà nước, mưa lớn từ ngày 7-10/8 đã gây ra lũ lụt ở 10 tỉnh miền Bắc làm 119 người chết, 40 người mất tích và 86 người bị thương. Lũ lụt còn tàn phá 18.686 ngôi nhà, 15.218 hécta hoa màu và 220 cầu cống.

 

Các tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Lào Cai và Yên Bái, có 88 người chết, 35 người mất tích và 77 người bị thương. Hai tỉnh này cùng với sáu tỉnh bị ảnh hưởng lũ lụt khác thuộc giáo phận Hưng Hoá.

 

Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của Saigon đã viết thư kêu gọi giúp đỡ hôm 11-8. Ngài viết: “Trong tình hiệp thông và lien đới huynh đệ với các nạn nhân thiên tai, tôi tha thiết kêu gọi toàn thể các linh mục, tu sĩ nam nữ thuộc các hội dòng và tu hội, và anh chị em giáo dân đang sống trong 200 giáo xứ trong tổng giáo phận, hãy hy sinh tiết giảm chi tiêu nhất là trong ăn uống và mua sắm, từ nay cho đến hết tháng tám này để chia sẻ với các anh chị em chúng ta đang sống trong khổ đau cùng cực, thiếu thốn trăm bề”.

 

Tổng giáo phận do Đức hồng y 74 tuổi đứng đầu đặt trụ sở tại Saigon, trung tâm thương mại của quốc gia, cách Hà Nội 1.710 km về phía nam.

 

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô, Đức Hồng y Mẫn nói: “Mỗi người hãy cho tùy theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”. Đức hồng y nhắc lại khi họ làm như thế là “chúng ta đáp lại tình thương hải hà của Thiên Chúa là Cha”.

 

Theo thư của Đức Hồng y Mẫn, được đọc trong các Thánh lễ từ ngày 16-17/8, tiền ủng hộ của người Công giáo chắc chắn sẽ “giúp các nạn nhân có điều kiện xây dựng lại cuộc của mình”. Ngài kêu gọi mọi người gửi tiền đến toà tổng giám mục, và ở đây sẽ chuyển đến các giáo phận trông coi các vùng bị ảnh hưởng lũ.

 

Ông Phêrô Lê Huy Phương, 69 tuổi, một nông dân ở huyện Trấn Yên của tỉnh Yên Bái, cách Hà Nội 160 km về phía tây bắc, cho UCA News biết hôm 15-8 rằng vùng của ông bị ngập trong nước sâu một mét trong nhiều ngày. Gia đình ông đã phải chạy đến ở nhờ nhà hàng xóm ở nơi cao hơn do nước lũ dâng nhanh, bố của năm người con nói, vì thế họ không kịp di chuyển hết đồ đạc.

 

Ông Phương còn cho biết trận lũ lớn nhất trong 40 năm qua này đã cuốn trôi gà vịt, 1.800 mét vuông ruộng, và 1.000 mét vuông ao cá của ông. Ông nói thêm chính phủ đã trợ cấp cho mỗi gia đình ba gói mì ăn liên và ba ký gạo.

 

Người hàng xóm của ông là chị Maria Trần Thị Tình, 33 tuổi, cho UCA News biết 2.160 mét vuông ruộng lúa của chị đã bị mất trắng và giờ vẫn còn bị ngập úng. Chị Tình cho biết đồ đạc và gà vịt của chị đã bị cuốn trôi sạch và chị không biết lấy đâu ra tiền để mua quần áo, sách vở cho hai đứa con đi học khi năm học mới bắt đầu vào ngày 28-8.

 

Cô Maria Trần Thị Hoan, 50 tuổi, giáo viên tiểu học ở thành phố Yên Bái, nói với UCA News rằng nhà cửa ở đây và ngôi trường của cô bị ngập trong bùn tới một mét. Mặc dù hàng trăm bộ đội đang giúp người dân địa phương dọn rác, cây cối và xác động vật, nhưng trường của bà vẫn không thể khai giảng kịp năm học mới, cô Hoan nói.

 

Cô nói thêm khi nước lũ rút người dân sẽ không có tiền để lo các nhu cầu hàng ngày vì giá thịt heo, thịt gà, gạo và xăng dầu đã tăng gấp đôi, gấp ba.

 

Chị Maria Lê Thị Sáu, 34 tuổi, tay bồng đứa con mới 15 ngày tuổi, cho UCA News biết nước lũ đã làm ngập chìm 7.500 mét vuông ao cá trị giá 50 triệu đồng của chị. Giờ chị không biết tương lai gia đình gồm năm thành viên của chị sẽ ra sao, đặc biệt là làm sao có thể trả 15 triệu đồng tiền vay ngân hàng.

 

Trong khi đó, một nguồn tin Giáo hội nói với UCA News hôm 14-8 rằng Uỷ ban Bác ái Xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi 150 triệu đồng cho giáo phận Hưng Hoá và 50 triệu đồng cho giáo phận Hải Phòng.

 

UCAN

Mục lục

 

 

Phỏng vấn Cha Gioan Baotixita Lê Quang Quý, Trưởng Ban Tổ Chức Đại Hội La Vang 28

 

Cha Gioan Baotixita Lê Quang Quý, Trưởng Ban Tổ Chức Đại Hội Hành Hương La Vang, sau Đại hội đã có lời nhận đinh là: “Ban ngành nào cũng đã làm hết sức lực của mình để phục vụ cho Đức Mẹ và người hành hương”. Để tìm hiểu thêm về tinh thần phục vụ và những thách đố to lớn trong việc tổ chức phục vụ cho mấy trăm ngàn người về La Vang trorg dịp này, Ban Truyền Thông Đại Hội La Vang có cuộc phỏng vấn với Cha trưởng ban tổ chức như sau:

 

Hỏi: Kính thưa Cha, Cha là người được giao trách nhiệm điều hành chính Đại Hội La Vang lần thứ 28, một Đại Hội vốn quy tụ hơn 500 ngàn người. Công việc này không phải dễ và không phải ai cũng làm được. Xin Cha vui lòng cho Ban Truyền Thông và độc giả chúng con biết chung chung về công tác chuẩn bị Đại Hội như thế nào?

 

Cha Quý: Để Đại Hội diễn tiến tốt như vậy thì cần phải chuẩn bị rất lâu và cần có sự hợp tác của nhiều người trong các ban ngành chuyên biệt. Dù có những trục trặc vì lượng người quá đông, nhưng Đại Hội nhìn chung đã diễn ra tốt đẹp.

 

Hỏi: Số lượng người hành hương đến hành hương La Vang năm nay có đông hơn so với những lần Đại Hội trước không ?

 

Cha Quý: Chưa có ai cho chính xác là con số là bao nhiêu nhưng lượng người chắc chắn là đông hơn rất nhiều. Bởi vì, mặt bằng năm nay rộng và thông thoáng hơn nhiều, trong khi đó mật độ người vẫn rất rất dày.

 

Hỏi: Đâu là vấn đề mà Cha băn khoăn lo lắng nhất trong việc chuẩn bị cho Đại Hội La Vang ?

 

Cha Quý: Nói đến thành công tốt đẹp thì phải nói đến hai phương diện. Thứ nhất là phương tiện vật chất bên ngoài. Thứ hai là chất liệu bên trong để chuyển tải đến người hành hương làm tăng niềm tin và lòng đạo đức.

 

Hỏi: Theo ước lượng của Cha, với một mặt bằng hiện đang có bây giờ, Trung Tâm Hành Hương La Vang có đủ sức chứa cho lượng người đến dự Đại Hội Tam Niên không ?

 

Cha Quý: Đại Hội năm nay có một may mắn là có mặt bằng rộng hơn vì Nhà Nuớc vừa giao lại gần hết đai đai của Thánh Địa. Nếu công tác tổ chức được thực hiện một cách khoa học thì phần đất hiện đang có bây giờ vẫn có thể đủ sức chứa.

 

Hỏi: Những gì diễn ra tại Đại Hội năm nay đã được Ban Điều Hành tiên liệu trước không ? Hay mọi sự điều bất ngờ ?

 

Cha Quý: Một cách cụ thể, chúng tôi đã dự liệu số người sẽ rất đông. Các khâu vệ sinh, nước sinh hoạt, ẩm thực, liều trại v.v. đều đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nhưng vẫn không thể cung cấp hết nổi. Nhưng theo tôi nghĩ, anh chị em hành hương cũng không đòi hỏi nhiều. Có được chừng nào hay chừng đó và họ bằng lòng với những gì đang có.

 

Hỏi: Mặc dù các anh em trong Ban Trật Tự đã làm việc hết mình để hạn chế kẻ xấu lợi dụng lấy cắp tài sản người hành hương, nhưng nạn móc túi vẫn còn xảy ra. Cha có kế sách gì để giảm bớt tình trạng này cho những lần Đại Hội sau?

 

Cha Quý: Chúng tôi tiếp tục nhắc nhở người hành hương để ý và canh chừng các tài sản của mình.

 

Hỏi: Với tư cách là Trưởng Ban Điều Hành Đại Hội, Cha thấy đâu là vấn đề tích cực mà Ban Điều Hành và các Ban Ngành đã làm được, và đâu là những vấn đề cần phải rút kinh nghiệm cho những lần Đại Hội tới ?

Cha Quý: Theo nhận định, ban ngành nào cũng đã làm hết sức lực của mình để phục vụ cho Đức Mẹ và người hành hương. Sau mỗi lần Đại Hội, tôi rút ra được thêm nhiều kinh nghiệm thực tế cho công tác chuẩn bị Đại Hội kế tiếp.

 

Con xin chân thành cám ơn Cha. Cầu xin Đức Mẹ La Vang ban cho Cha nhiều ơn lành để Cha có thể tiếp tục kiến thiết và phục vụ tốt các cuộc hành hương tới.

Hữu Sanh

Mục lục

 

 

Giới di dân gốc Vinh tại miền Nam mừng lễ quan Thầy

 

SAIGÒN - Ngày 15/08/2008: Giới Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam Thuộc Các Thế Hệ Cha Anh Mừng Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời – Bổn Mạng Của Giáo Phận Tại Trụ Sở Giáo Phận Vinh, Số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm – P. Đakao – Q.1 – Saigòn.


Thứ Sáu ngày 15/08/2008, khoảng 100 ông bà và các anh chị em di dân Giáo phận Vinh thuộc nhiều thế hệ khác nhau và nhiều nơi sinh sống khác nhau đã họp mừng lễ Mông Triệu tại Trụ sở của Giáo phận Vinh.

Vì hội trường của Trụ sở với sức chứa giới hạn, nên Ban đại diện chỉ mời một số người đại diện cho các thành phần trung và cao niên đang sinh sống tại Sài Gòn. Đối với những người cao tuổi, đây quả là một biến cố đặc biệt, vì là lần đầu tiên ông bà và anh chị em, con cái Giáo phận Vinh được trở về ngôi nhà của mình mừng lễ quan thầy của Giáo phận Mẹ. Trong dịp đặc biệt này, quý ông bà và anh chị em đã bày tỏ lòng nhớ thương và biết ơn “Mẹ Giáo Phận” và “Giáo Phận Mẹ”. Con cái của Giáo phận Vinh, dù sống ở đâu, dù đi đâu, thì quê hương vẫn là nơi thiêng liêng ghi dấu ấn tình thương và hồng phúc cho cuộc đời mỗi người. Họ đi đâu cũng mang quê hương theo mình, nghĩa là vẫn sống “cái chất quê” và có thể nói là rất “quê”.


Cuộc họp mặt này đã để lại ấn tượng khó quên, và nhất là đánh dấu một cột mốc quan trọng là: ông bà và anh chị em đã thống nhất thành lập Hội Ái Hữu Vinh Tại Sài Gòn với mục đích là giúp đỡ Giáo phận Mẹ, nhất là những người mới chập chững vào Sài Gòn sinh sống, làm việc, học tập hoặc tu trì. Đây quả là một ý tưởng rất cao đẹp và hữu ích. Ông bà và anh chị em đã bầu ra một Ban Trù Bị để chuẩn bị cho Buổi họp chính thức hầu đi đến một sự đồng thuận chung trong cách tổ chức, phương thức sinh hoạt, quy chế và Ban điều hành của Hội. Ban Trù Bị gồm có những người sau: anh Phan Đình Thi, ông Nguyễn Trường Xuân, anh Nguyễn Văn Phú và ông Anh Tôn Khôi. Những người này có nhiệm vụ chuẩn bị chương trình, triệu tập ngày họp mặt chính thức thành lập Hội Ái Hữu Vinh Tại Sài Gòn. Tin vui này đã được thông truyền cho Giới trẻ Di Dân, và tất cả anh chị em giới trẻ di dân rất vui sướng khi nghe tin vui này. Cầu mong cho Hội phát triển mạnh mẽ để đạt mục đích và ước nguyện của những người thiện chí là những người con Giáo phận Vinh đang sống xa quê hương và đất mẹ.


Ngày 17/08/2008: Giới Trẻ Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Sài Gòn Và Các Vùng Lân Cận Mừng Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời Bổn Mạng Của Giới Trẻ Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam


Chúa nhật ngày 17/08/2008, Giới trẻ Di dân Giáo phận Vinh đang sinh sống, làm việc và học tập tại Miền Nam (Sài Gòn và các tỉnh thành phố gần Sài Gòn) đã gặp mặt sinh hoạt, mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Bổn mạng của Giáo phận và cũng là Bổn mạng của Giới trẻ Di dân Giáo phận Vinh tại Miền Nam với Chủ đề “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5) từ 08g30 – 17g00 tại Trụ sở của Giáo phận Vinh (32, Nguyễn Bỉnh Khiêm – P. Đakao – Q.1 – TP.HCM) cùng sự hiện diện của anh chị em công nhân, sinh viên, những người dự tu, các tu sĩ nam nữ và một số khách mời đặc biệt (ân nhân và người nước ngoài) với khoảng gần 300 người.


Hội trường có sức chứa giới hạn, khoảng hơn 100 người, nên Ban Điều Hành Giới Trẻ không dám mời đông, thế nhưng anh chị em di dân từ Bình Dương, Đồng Nai, Bình Tân, Thủ Đức… đã quy tụ về rất đông. Ban tổ chức phải xếp ghế ở phòng hội đi hết mới chứa nổi gần 300 người. Dù ngồi chật chội và phải ngồi bệt ở sàn nhà, nhưng anh chị em ai ai cũng không cảm thấy khó chịu, ngược lại ai ai cũng thấy ấm áp tình người cứ như thể tất cả mọi người là anh em một nhà vậy! Mà quả thật, tất cả mọi người đến họp mặt đều là anh em một nhà vì cùng chung một niềm tin, một Chúa là Cha của mọi người và cùng chung một Mẹ Giáo Phận. Ôi! thật là Một ngày hạnh phúc và vui mừng cho những người con xa phương cầu thực! Cảm tạ Mẹ Giáo Phận đã nối kết anh chị em lại với nhau trong một tình thương chan hòa!


Ngày họp mặt đã diễn ra trong bầu khí ấm cúng, sinh động, vui tươi, rất là trẻ trung và cũng rất là gia đình. Các bạn trẻ đã vui chơi hết tình kể từ khi bước vào cuộc. Chương trình được bố trí xen kẽ giữa chia sẻ, gặp gỡ, sinh hoạt, thuyết trình, đối thoại và cầu nguyện với nhau. Ngày họp mặt này đã thu hút được sự cộng tác của các anh chị em công nhân và sinh viên từ nhiều khu vực khác nhau.

Các đề tài được thuyết trình, chia sẻ rất gần gũi và ý nghĩa đối với giới trẻ: “Mầu nhiệm sự sống”, “Hôn nhân khác đạo”, “Hiện tượng sống thử”, “Tình trạng nạo phá thai”, và một số vấn đề có liên quan đến luân lý (đạo đức sinh học).


Ngày họp mặt kết thúc với bài ca “Tôi chọn Giêsu” như một điểm tựa cuộc đời để từ đó, anh chị em ra đi muôn nẻo đường về với cuộc sống nơi công ty, trường học… Chia tay mà lòng bịn rịn như muốn ở lại đối phút để kéo dài niềm vui, thế nhưng giờ chia tay đã đến, anh chị em ra về trong hân hoan; 30 phút sau đó, trời đổ mưa như một dấu hiệu tin lành đang đến cho “Anh Chị Em giới Trẻ Di Dân Giáo Phận Vinh Tại Miền Nam”.

 

Fx. Trần Kim Ngọc, OP

Mục lục

 

 

Dòng Mân Côi Trung Linh, Bùi Chu, tổ chức Lễ Khấn Dòng trọng thể

 

BÙI CHU - Sáng ngày 22.08.2008, tại nhà thờ Giáo xứ Trung Linh, Dòng Mân Côi Trung Linh đã tổ chức thánh lễ khấn dòng trọng thể cho 23 nữ tu trong đó có 13 nữ tu khấn lần đầu và 10 nữ tu khấn vĩnh viễn.

Thánh lễ được tổ chức vào lúc 9 giờ, ngay sau khi kết thúc lễ khấn bên Dòng Trinh Vương. Thật tiện lợi cho nhiều người, vì hai Hội Dòng, cùng xã, cùng huyện, cùng Giáo Phận, chỉ cách nhau một cánh đồng với khoảng 2 phút đi xe máy.

 
Khu vực nhà thờ và tu viện Trung Linh người đông như hội, cờ hoa, khẩu hiệu trang hoàng khắp nơi. Sân tu viện bắc rạp và sắp tiệc giống như đám cưới lớn ở vùng quê Miền Bắc. Các nữ tu trang hoàng cầu thang và phòng ốc ở tu viện để đón các chị em tân khấn giống như đón cô dâu.


Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, Giám mục Chính Toà Bùi Chu, đã đến chủ sự thánh lễ khấn dòng. Đồng tế với ngài có khoảng 50 cha đến từ các giáo xứ của Giáo phận Bùi Chu, Hà Nội và Thái Bình.


Tham dự thánh lễ, ngoài các tín hữu thuộc giáo xứ Trung Linh, còn có rất đông các nam nữ tu sĩ trong ngoài Giáo Phận và các thân nhân, ân nhân của các khấn sinh từ các tỉnh về tham dự. Các tín hữu tràn cả ra khuôn viên xung quanh nhà thờ.


Mở đầu thánh lễ Đức Giám Mục Bùi Chu đã mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các chị em được trung thành và chung thuỷ với Đức Lang Quân của mình. Trong bài giảng ngài đề cao sự hy sinh từ bỏ của các chị em qua các lời khấn, đồng thời mời gọi các chị em sống xứng đáng với tư cách là những người đã được thánh hiến cho Chúa.


Thánh lễ diễn ra với rất nhiều nghi thức trang trọng cùng những bài hát và những lời suy niệm cảm động đi theo hay xen kẽ giữa các nghi thức. Ai tham dự thánh lễ cũng thấy đất là một thánh lễ được tổ chức công phu, hoành tráng, có trình độ phụng vụ cao, xứng đáng là một Hội Dòng kỳ cựu của Giáo Phận.


Được biết Hội Dòng Mân Côi được Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn thành lập năm 1946, là Hội Dòng đầu tiên của Bùi Chu được thành lập theo giáo luật. Năm 1954 phần lớn các chị em đã di cư vào Miền Nam lập nên Dòng Mân Côi Chí Hoà. Một số ít các chị em già yếu bệnh tật, thất học còn ở lại, vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để bảo tồn sự hiện diện của Hội Dòng cho đến hôm nay.


Chị Têrêxa Maria Trần Thị Nhung, Phó Bề trên Tổng quyền cho biết: Hiện tại Hội Dòng có 207 chị em có lời khấn, 21 tập sinh, 13 tiền tập sinh, 145 đệ tử, 18 chị tận hiến không lời khấn, tổng cộng là 404 thành viên, phục vụ tại 35 cơ sở trong ngoài giáo phận Bùi Chu.


Chị Maria Vũ Thị Nguyện, Tổng Cố vấn Phụ trách Đào tạo, cho biết phần lớn các chị em trong Dòng đang trong giai đọan đào tạo (251/404). Các chị em học thần học ở TGM Bùi Chu. Một số khác học ở Sài Gòn. Hội Dòng cũng gửi vài chục chị em đi học chuyên môn khoa học, nghệ thuật, sư phạm và y tế ở Nam Định, Hà Nội và Sài Gòn. Cũng có một số chị em được gửi đi đào tạo chuyên sâu ở ngoại quốc.


Trừ các chị em đang đi học ở Sài Gòn, Hà Nội và Nam Định, các chị em còn lại đều ở nông thôn, làm ruộng và chăn nuôi và phục vụ nông dân.


Ngay tại nhà chính của Hội Dòng ở Trung Linh, khi vào bếp chúng tôi thấy chị em vẫn bùm khăn, bịt mặt, nấu ăn bằng rơm rạ, bưng những nồi cơm đen nhẻm từ trong khối tro bếp ra bên ngoài… Chỉ một hình ảnh thôi đã khiến chúng tôi cảm thấy ấn tượng, cảm động và tin tưởng vào tinh thần hy sinh phục vụ của các chị em ở đây.


Chị Phó Tổng Phụ Trách cho biết: Hiện nay Hội Dòng đang phụ trách một trại người mù ở Hải Long và một bệnh xá tại Trung Linh-Nam Định. Bệnh xá này có quy mô một bệnh viện, mỗi ngày có khoảng 100 lượt người đến khám bệnh và khu nội trú của bệnh xá thường xuyên có khoảng 50-65 bệnh nhân nội trú công giáo hoặc không công giáo đến từ nhiều tỉnh khác nhau ở Miền Bắc.

Chị Phó Tổng Phụ Trách cho biết hiện tại có khoảng 1 chục nơi mời Hội Dòng đến lập cơ sở phục vụ, nhưng Hội Dòng vẫn chưa có đủ nhân sự đáp ứng. Có lẽ vì có tinh thần hy sinh phục vụ cao như thế nên các chị em Mân Côi “đắt khách” mời chăng?

 

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

Mục lục

 

 

Lễ khấn tại Dòng Trinh Vương giáo phận Bùi Chu

 

BÙI CHU – 5 giờ sáng 22.08.2008, nhân dịp kết thúc tuần tĩnh tâm năm, nhằm ngày lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, các chị em Dòng Thừa sai Đức Mẹ Trinh Vương Bùi Chu đã tổ chức thánh lễ khấn lần đầu cho 10 tập sinh mãn Tập viện.

 
Thánh lễ được tổ chức đơn sơ, âm thầm tại nguyện đường tu viện chính của Hội Dòng tại Liên Thuỷ. Không có các thân nhân của các khấn sinh và cũng không có khách mời tham dự. Chỉ có do Đức cha Phê rô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Phụ tá Bùi Chu, chủ sự và 12 cha trong Giáo phận tới đồng tế.

Trong bài giảng, Đức Cha Phêrô mời gọi các chị em hãy chu toàn sứ mạng thừa sai của Hội Dòng là làm nổi bật ý nghĩa và giá trị của đức trinh khiết nơi Đức Maria-Trinh Nữ Vương, đồng thời vun trồng nhân đức ấy nơi bản thân mình và làm cho giới trẻ trong xã hội ngày nay biết yêu mến và sống đức trinh khiết.

Đức cha Phêrô cũng nói rằng mọi Hội Dòng đều có sứ mạng truyền giáo và tên gọi thừa sai trong danh hiệu của Hội Dòng cũng xác định sứ mạng truyền giáo của các chị em Trinh Vương. Từ đó, ngài cũng mời gọi các chị em hãy theo sát Chúa Kitô, bởi vì nếu không yêu mến Chúa Kitô thì không thể truyền giáo được.



Đức cha Phêrô còn đặt vấn đề với các chị em về bản sắc riêng của Hội Dòng và cầu chúc cho các chị em luôn được giữ bản sắc riêng ?y hầu làm phong phú đời sống của Giáo Hội và mang lại những hoá trái tông đồ tốt đẹp.


Bên lề lễ khấn, chị Maria Nguyễn Thị Thục, Tổng Phụ Trách Hội Dòng, cho biết: Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Trinh Vương Bùi Chu được Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh thành lập năm 1969. Tuy nhiên, mãi đến đầu thập niên 1990 Hội Dòng mới có thể tuyển sinh đào tạo. Hiện tại Hội Dòng có 72 nữ tu, 13 tập sinh, 70 đệ tử.


Hầu hết các thành viên trong Hội Dòng đều đang sống và phục vụ tại tu viện Liên Thuỷ và Tu viện Tân Lý. Công việc tông đồ chủ yếu tại hai tu viện này là giúp dạy giáo lý, phụ trách các hội đoàn và nuôi dạy trẻ. Các chị em cũng phụ trách một cơ sở nuôi dưỡng người già neo đơn ở Giáo xứ Quần Cống và một phòng thuốc ở Giáo xứ Tân Bình, Bùi Chu.



Chị Tổng Phụ Trách cũng cho biết hiện tại có nhiều nơi xin các chị em của Hội Dòng đến phục vụ, nhưng Hội Dòng không đủ nhân sự đáp ứng, vì quá nửa số chị em vẫn còn trong giai đọan đào tạo căn bản. Một nửa số chị em này học thần học tại TGM Bùi Chu. Một nửa các chị em còn lại được gửi đi học thần học và nghiệp vụ chuyên môn ở Sài Gòn.

Được biết một trong những thuận lợi lớn của Hội Dòng hiện nay là vẫn có khá nhiều ơn gọi và môi trường làm việc tông đồ rộng lớn đang mở ra. Một trong những khó khăn lớn nhất là lo liệu đủ kinh phí tối thiểu cho việc đào tạo nhân sự vì hiện tại, có quá nửa số nữ tu có lời khấn còn đang đi học (40/72), chưa kể 13 tập sinh và 70 đệ tử, trong khi nguồn thu nhập kinh tế chủ yếu của Hội Dòng là làm ruộng và chăn nuôi.


 

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT

Mục lục

 

 

Lễ khấn của các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng TGP Huế

 

HUẾ - Sáng ngày 22.08.2008, nhân ngày lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng Huế đã tổ chức trọng thể Khấn dòng cho 22 nữ tu. Trong đó có 10 khấn sinh tuyên khấn lần đầu, 9 khấn sinh khấn Trọn đời, 2 nữ tu mừng Ngân Khánh, đặc biệt nữ tu Madalena Trần Thị Hân mừng lễ Kim Cương mặc dù đã nằm liệt giường do tuổi già.


Đức Tổng Giám mục Giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể chủ sự thánh lễ, cùng đồng tế có Đức Tổng Giám mục Giáo phận Đà Nẵng Giuse Châu Ngọc Tri, Đức Giám mục Phụ tá Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, khoảng 100 linh mục trong và ngoài giáo phận, đông đảo tu sĩ nam nữ, bà con thân nhân, ân nhân của Hội dòng.


Huấn từ của Đức Tổng Giám mục Giáo phận Huế mở đầu buổi lễ nhắc lại lời mời gọi của Chúa Giêsu hãy từ bỏ vật chất để đổi lấy nước trời. Nhưng ngài buồn lòng vì lời mời gọi đó đã bị nhiều người từ chối. Ngài đã trừ quỷ ám cho nhiều người, nhưng Ngài khó chữa lành những người bị tiền của vây bọc. Đức Tổng Giám mục nhấn mạnh Đức Kitô là kho tàng quý giá nhất mà các con tìm kiếm. Phúc âm là lối thoát giải tỏa mọi vướng mắc trong tâm hồn. Trong lời khấn vâng phục bề trên và sống đơn sơ phó thác đời mình trong tay Mẹ, vì chính Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi. Các con nhận cuộc sống khó nghèo và đem vui mừng đến người nghèo khó.


Nghi thức tuyên khấn lần đầu, Đức Tổng Giám mục đã làm phép khăn lúp và trao cho các tân khấn sinh. Ngài cũng trao cho mỗi khấn sinh một Hiến chương của Hội dòng để rèn luyện thử thách.


Các nữ tu tuyên khấn vĩnh viễn đã lập lại lời tuyên khấn và hứa trọn đời theo chân Chúa. Đức Tổng Giám mục đã xướng Kinh cầu các Thánh để nhờ lời cầu khẩn của các Ngài cho các nữ tu can đảm trên con đường phục vụ Giáo hội.


Cuối buổi lễ, nữ tu Maria Pauline Nguyễn Thị Diệu Cảnh, Tổng bề trên Hội dòng đã cảm ơn Đức Tổng Giám mục, các Giám mục, linh mục không quản ngại mệt nhọc sau những ngày Đại hội La Vang để đến dâng thánh lễ tạ ơn mừng hông ân thánh hiến của Hội dòng, mừng cho Hội dòng có thêm nhiều chị em dấn thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo hội. Đồng thời bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với các phụ huynh là những bậc sinh thành đã không nuối tiếc phó thác con cái mình trong tay Thiên Chúa. Xin cầu nguyện cho các chị luôn trung thành với Chúa, noi gương Đức Maria luôn đem niềm vui đến cho mọi người.

Trương Minh Phương

Mục lục

 

Đại hội Giới Trẻ giáo phận Phan Thiết ngày 15.08.2008



Chủ đề: “Anh em là chứng nhân của Thầy” (Cv 1. 8)


Sau những ngày tham dự Đại Hội Giới Trẻ Quốc Tế tại Sydney, Ban Mục Vụ giới trẻ Giáo phận Phan thiết đã tổ chức Đại Hội Giới Trẻ giáo phận năm 2008 với chủ đề: “Anh em là chứng nhân của Thầy” (Cv 1, 8). Ngày Lễ Đức Mẹ hồn Xác lên Trời, có 1500 bạn trẻ từ các giáo xứ trong giáo phận qui tụ về Nhà thờ Hiệp Đức để tham dự Đại Hội.

 
7 giờ sáng, ban tổ chức đón tiếp các đoàn từ 5 Giáo hạt. 8 giờ sáng, chương trình được bắt đầu bằng phần sinh hoạt khởi động với những bài hát cử điệu sôi động và trẻ trung. Nhạc chủ đề Đại hội Giới trẻ thế giới “Receive the Power” (Hãy lãnh nhận Thần Lực) được hát với cử điệu vui nhộn đầy sức sống. Khởi đầu ngày đại hội như thế đã làm cho các bạn trẻ liên kết với nhau trong sự năng động của tuổi trẻ.

Đức Ông Tổng đại diện JB Lê Xuân Hoa mở đầu với tiếng trống khai hội. Ngài thay mặt Đức Giám Mục giáo phận chào mừng các bạn trẻ và bày tỏ sự quan tâm của giáo phận đối với giới trẻ qua những lời huấn dụ. Ngài đã đề cập tới những thực trạng của giới trẻ trong thời đại hôm nay với những thuận lợi và những khó khăn trong một xã hội đầy những biến động, với những cơ hội và thách thức cho người trẻ.

Cha Phêrô Võ Tấn Luật, đặc trách giới trẻ giáo phận chào mừng Đức Ông Tổng Đại Diện, quý cha hạt, cha quản lý, cha thư ký, quý cha đặc trách giới trẻ các giáo hạt, quý thầy và tất cả các bạn trẻ đến tham dự Đại Hội.


Chương trình Đại hội chia thành hai phần. Ban sáng dành cho việc bồi bổ thiêng liêng. Ban chiều và tối sinh hoạt giao lưu.


Sau bài thuyềt trình: “Giới trẻ là chứng nhân của Đức Giêsu Kitô”, Thánh Lễ đồng tế mừng kính Đức Mẹ hồn Xác Lên Trời.


Sau cơm trưa, các bạn trẻ hát cho nhau nghe những khác ca vui nhộn trong tình thân ái và trẻ trung.


Đúng 2g30, các bạn trẻ đã hân hoan chào mừng Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám Mục giáo phận. Ngài vừa dâng lễ tại một Nhà dòng và vội vã từ Sàigòn trở về để gặp gỡ các bạn trẻ. Sự hiện diện của Đức Giám mục giáo phận đã làm cho các bạn rất xúc động, hình ảnh người cha yêu thương ân cần với đàn con cái ghi dấu ấn đậm nét trong tâm tư các bạn trẻ.


Trong bài huấn từ, Đức Cha kể lại những thách thức mà Đức Thánh Cha Bênêđictô gởi đến giới trẻ thế giới tại Sydney.


Những bài diễn văn của Đức Thánh Cha trong những cử hành ngày Quốc tế Giới Trẻ 2008 tại Sydney là những bài Giáo lý nhiều ý nghĩa, xoay quanh đề tài Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống trên các tín hữu, biến đổi họ thành những chứng nhân cho Chúa Kitô Phục sinh.


Những thách thức của ĐTC dành cho các bạn trẻ.


Thách thức sống thánh thiện


Trong bài diễn văn đầu tiên khi ĐTC xuất hiện trong nghi thức tiếp đón chính thức vào ngày 17 tháng 7, thì thách thức đầu tiên ĐTC gởi đến các bạn trẻ là thách thức sống thánh thiện. ĐTC đã ngỏ lời với các bạn trẻ: “Qua tác động của Chúa Thánh Thần, ước chi nhũng người trẻ họp nhau nơi đây để cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, có được can đảm trở nên thánh. Đây là điều mà thế giới đang cần đến, hơn bất cứ điều gì khác!”. Với các bạn trẻ ngoài Công Giáo, ĐTC đã mời gọi hãy đến gần “lãnh nhận cái ôm hôn đầy yêu thương của Chúa Kitô, và hãy lãnh nhận “Giáo hội Công Giáo như là nhà của mình”.


Thách thức làm chứng trước thế giới cho niềm vui phát sinh từ sức mạnh Chúa Thánh Thần.


Ngày 18 tháng 7, khi gặp gỡ với các “bạn trẻ kém may mắn”, đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương nghiện rượu, nghiện ma tuý, và đã có lúc muốn tự tử, ĐTC không bỏ cuộc, mà ngược lại, Ngài tin tưởng trao cho họ trách vụ hãy trở thành “những sứ giả của niềm hy vọng đối với tất cả những ai đang sống trong hoàn cảnh tương tự như họ trước đó”. ĐTC thách thức những người trẻ này như sau: “Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng con hãy chọn sự sống, hãy chọn tình yêu thương, hãy làm chứng trước thế giới cho niềm vui phát sinh từ sức mạnh Chúa Thánh Thần”.


Thách thức làm chứng cho niềm hy vọng mà Chúa Giêsu Kitô mang đến.


Ngày 19 tháng 7, trong thánh lễ do Ngài chủ tế với các Giám mục Úc, dành cho chủng sinh và những tu sĩ nam nữ, ĐTC đã hướng về các chủng sinh và kêu gọi: “Chúng con đừng lo sợ! Hãy tin tưởng vào ánh sáng! Hãy đưa vào trong tâm hồn sự thật mà chúng ta đã nghe trong bài đọc 2: “Chúa Giêsu Kitô luôn là như vậy hôm qua, hôm nay và mãi mãi trong tương lai. Ứơc chi ánh sáng phục sinh tiếp tục đuổi xa đi những bóng tối!”


ĐTC kêu gọi các bạn trẻ Kitô hãy làm chứng cho niềm hy vọng mà Chúa Giêsu Kitô mang đến cho họ trong Tin Mừng. Đây là cái nhìn về sự sống, trong đó tình yêu ngự trị và các hồng ân lãnh nhận đều được đem ra chia sẻ; đây là cái nhìn về sự sống, trong đó sự hiệp nhất được cũng cố thêm mãi.


Thách thức sống thực sự cuộc sống của mình là để cho mình được bến đổi từ bên trong.


Đêm Canh Thức tôi thứ bảy, ngày áp lễ bế mạc Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, nói với tren 250.000 bạn trẻ tham dự buổi canh thức, ĐTC đã vừa giải thích vừa thách thức: “Sống thực sự cuộc sống của mình là để cho mình được biến đổi từ bên trong, là mở rộng tâm hồn nhận sức mạnh của tình thương Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng con có thể biến đổi gia đình chúng con, cộng đoàn chúng con, và đất nước chúng con. Chúng con hãy phát huy những hồng ân Chúa Thánh Thần. Hãy làm sao để các ơn khôn ngoan, thông hiểu, mạnh mẽ, hiểu biết, và đạo đức, trở nên những dấu chỉ cho sự cao cả của chúng con!”


Thách thức dấn thân trong đời tận hiến cũng như trong ơn gọi linh mục.


Ngày bế mạc, sáng Chúa nhật 20 tháng 7, trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã thách thức hỏi khoảng 500.000 người trẻ: “chúng con sẽ để lại điều gì cho thế hệ kế tiếp chúng con?” ĐTC đã yêu cầu họ hãy là “những kẻ có khả năng lôi cuốn anh chị em mình đến với Chúa Cha và có khả năng xây dựng một tương lai đầy hy vọng cho toàn thể nhân loại”. Và lời thách thức đặc biệt của ĐTC dành cho một số bạn trẻ nam nữ nghe được tiếng Chúa mời gọi dẫn thân trong đời tận hiến cũng như trong ơn gọi linh mục: “Chúng con đừng sợ thưa ‘Vâng’ đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu. Chúng con đừng sợ tìm gặp niềm vui trong việc thực thi thánh ý Chúa, vừa hiến thân trọn vẹn để đạt đến sự thánh thiện, vừa sử dụng những tài năng Chúa ban cho chúng con để phục vụ anh em!”


Thách thức trở thành những chứng nhân trung kiên cho tình yêu của Đức Giêsu Kitô


Cuối thánh lễ bế mạc, sau khi xướng kinh Truyền tin và tuyên bố Madrid làm địa điểm cho ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm 2011, ĐTC thách thức các bạn trẻ: “Hãy cho thế giới nhìn thấy niềm vui của chúng con được làm chứng cho Chúa Kitô!”


Đúc kết những thách thức của ĐTC đối với giới trẻ thế giới, Đức Cha Phaolô đã nhắn nhủ các bạn trẻ: “Chúng con hãy trở thành những chứng nhân trung kiên cho tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúng con hãy dùng những tài năng và sự hăng say của tuổi trẻ để phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng. Chúng con hãy cảm thấy mình có trách nhiệm rao giảng Phúc Âm cho những bạn đồng tuổi với chúng con. Và đặc biệt, các con phải là những chứng nhân sống động giữa cuộc sống đầy những thách đố và cạm bẫy của xã hội hôm nay”.


Khuôn viên Nhà thờ Hiệp đức rộng thoáng, nhiều bóng cây, các bạn trẻ sinh hoạt nhộn nhịp các trò chơi, giao lưu văn nghệ cây nhà lá vườn theo địa điểm dành riêng cho 5 giáo hạt.


Sau bữa cơm chiều, chương trình diễn nguyện theo chủ đề “chứng nhân cho Chúa Kitô”, nhiều thể loại ca múa, trống, kịch làm sống động các chứng nhân từ các câu chuyện Phúc âm, từ Lịch sử Giáo hội Việt nam và từ cuộc đời hôm nay. Đêm diễn nguyện giúp các bạn trẻ đi vào sự lắng đọng của tâm hồn bằng tâm tình cầu nguyện thật sốt sắng. Đêm cầu nguyện kết thúc lúc 10 giờ với nghi thức sai đi đã khép lại ngày Đại hội giới trẻ giáo phận.


Ngày gặp gỡ đã bồi bổ thêm cho các bạn trẻ nhiều ơn ích thiêng liêng, nhiều niềm vui tươi trẻ. Dù thời tiết rất nóng bức, dù chương trình liên tục một ngày Đại hội, các bạn vẫn chan hoà tiếng cười rộn rã, rạng rỡ trên khuôn mặt niềm vui của tình thân ái.


Tham dự ngày Đại hội giới trẻ, nhìn các bạn trẻ học tập giáo lý, cầu nguyện, sinh hoạt trẻ trung, tôi nhớ đến lời Đức Thánh Cha Bênêđictô trong bài giảng ngày lễ bế mạc tại Sydney: Giáo Hội đặc biệt cần đến tài năng của những người trẻ tuổi, tất cả những người trẻ tuổi. Giáo Hội cần phải lớn mạnh trong quyền năng Chúa Thánh Thần Đấng đang ban niềm vui cho tuổi trẻ của các con và linh hướng các con phụng sự Thiên Chúa trong niềm vui. Hãy mở rộng tâm hồn cho quyền năng đó! Cha khẩn thiết gởi lời yêu cầu đó đến các con, đặc biệt là những người mà Thiên Chúa đang gọi vào đời sống linh mục và thánh hiến. Đừng sợ hãi để thưa “xin vâng” với Đức Giêsu, để tìm nguồn vui và thực hành Thánh Ý Ngài, để dâng hiến hoàn toàn cho việc tìm kiếm sự thánh thiện, và tận dụng hết mọi khả năng để phục vụ tha nhân!


Hy vọng các bạn trẻ lắng nghe những thách thức của Đức Thánh Cha và nổ lực sống chứng nhân cho Chúa Kitô.

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh trong thánh lễ khai mạc Đại hội hành hương Thánh Mẫu La Vang

 

LỜI CHÀO ĐẦU LỄ

Với tư cách là người được ban tổ chức đại hội Thánh Mẫu La vang lần thứ 28 giao nhiệm vụ chủ sự thánh lễ khai mạc.

Nhân danh Đức cha chủ tịch Phêrô Nguyễn văn Nhơn và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,

Thay lời cho Đức cha Stêphanô Nguyễn như Thể, Tổng Giám Mục giáo phận Huế, đặc Trách Trung tâm toàn quốc Thánh Mẫu La vang,

Tôi xin trân trọng kính chào và cám ơn sự hiện diện đầy tình liên đới của quí đại biểu quan khách xã hội, tôn giáo bạn, phóng viên, ký giả, báo đài và bà con bên lương.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến từng người anh em linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân về từ khắp các nẻo đường quê hương hay từ xa xôi hải ngoại.

Và thưa cộng đoàn Dân Chúa VN,

Trong bối cảnh năm thánh Phaolô toàn cầu, trong bầu khí chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm VN, trong tinh thần năm giáo dục đức tin của Hội đồng Giám Mục Việt Nam, trong niềm vui Đức Giáo Hoàng Bênêđitô vừa bổ nhiệm cha Cosma Hoàng văn Đạt dòng Tên, hiện đang có mặt tại đây, làm tân giám mục giáo phận Bắc Ninh, trong dư âm lịch sử 27 lần đại hội trước, chúng ta về đây thăm lại người Mẹ vô vàn thương mến của chúng ta, người mẹ 210 năm về trước đã hiện ra để an ủi tín hữu Cát Dinh và biến nơi này thành linh địa.

Chúng ta hãy gửi gắm tất cả những ưu tư phiền muộn của chúng ta cho Mẹ và chúng ta hãy tin Mẹ luôn có giải pháp tối ưu, có chìa khoá vạn năng cho mọi vấn đề khúc mắc của chúng ta.

Nhờ sức mạnh của đức tin, Trong cuộc sống trần gian của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của TC nên đời Mẹ luôn bình yên.

Đó cũng là ơn mà trong cuộc hành hương này, chúng ta xin Mẹ bầu cử cho mỗi người chúng ta: bình yên cho bản thân, bình yên cho gia đình, bình yên cho giáo xứ, bình yên cho giáo hội Việt nam, bình yên cho quê hương đất nước.

Và để lời cầu xin đó xứng đáng được khứng nhậm, trước hết chúng ta hãy thành tâm sám hối và rộng mở cõi lòng để đón nhận ơn tha thứ của Chúa.

BÀI GIẢNG

St 3,9-15.20; Gl 4,4-7; Ga 2,1-11

Chủ đề Đại Hội La vang lần thứ 28: “HỄ NGÀI BẢO LÀM GÌ THÌ CỨ LÀM THEO”

Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã hoá nước thành rượu.

Các nhà chú giải thường gọi phép lạ này là “phép lạ tiệc cưới Cana”. Nhưng xét về ý nghĩa, chúng ta có thể gọi là “phép lạ của niềm vui”. Trước nguy cơ tiệc cưới, vì hết rượu, có thể biến thành bi kịch, Chúa Giêsu đã ra tay giải cứu ban tổ chức khỏi mối lo đó, đã trả lại cho họ sự an tâm.

“Và con tim đã vui trở lại”. Đó là lời một bài hát của nhạc sĩ Đức Huy mà chúng ta có thể mượn để diễn tả niềm vui của những người trong cuộc phép lạ Cana.

Phải chăng đó cũng chính là nguyện ước của mỗi người chúng ta khi về đây thăm lại người Mẹ thiêng liêng vô vàn thương mến của chúng ta ?

Về dưới bóng Mẹ, ở với Mẹ ít lâu để được Mẹ an ủi vỗ về, rồi từ giã Mẹ lên đường trở lại cuộc đời, đem theo một trái tim mới vừa được Mẹ đổ tràn bình an và niềm vui.

Thật vậy,

Sở dĩ mỗi người chúng ta, hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, lương dân, đã không quản ngại đường xá xa xôi từ vạn nẻo đường 26 giáo phận, từ hải ngoại thăm thẳm hàng nửa vòng trái đất, là vì chúng ta tin vào tình mẫu tử thiêng liêng vô song của Mẹ.

Sở dĩ khi về đây ai nấy đều mang theo những hồ sơ đời phức tạp gai góc, là vì chúng ta cảm thấy mình bất lực không tìm được giải pháp, là vì chúng ta muốn trút cả cho Mẹ gánh nặng tâm tư, và nhất là vì chúng ta tin rằng Mẹ có đủ thế lực để cứu vớt chúng ta.

Mẹ có thế lực là vì Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.

Nhưng nhất là vì Mẹ đã tin.

Phân tích thái độ của Mẹ trong câu chuyện tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ thấy Mẹ là người đầu tiên đã khám phá nguy cơ hết rượu của chủ tiệc.

Nhưng Mẹ không giải quyết.

Mẹ chỉ nói với Chúa Giêsu rằng “họ hết rượu rồi”.

Phản ứng của Chúa Giêsu xem ra khó hiểu. Có vẻ như Ngài trách Mẹ: “Việc đó có mắc mớ gì đến mẹ đâu!”. Nhưng Mẹ không hề ngạc nhiên. Mẹ không cần biết Chúa Giêsu con Mẹ sẽ làm gì. Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào sự quan tâm và quyền năng của Ngài.

Chúa chưa ra tay, vì giờ của Ngài chưa đến, Thế mà Mẹ đã điềm tĩnh nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, anh em cứ thế mà làm nhé”. Y như Mẹ biết chắc chắn Chúa sẽ nghe lời Mẹ.

Mẹ quả là bậc thầy về đức tin. Nhưng không phải đến Cana Mẹ mời có đức tin vững vàng như thế. Nơi Bêlem, trên đường thương khó của con Mẹ, dưới chân thập giá, Mẹ không xin Chúa làm phép lạ. Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Con tim nhân loại của Mẹ đau khổ, Nhưng tâm hồn Mẹ tràn ngập niềm vui. Cả đời Mẹ diễn ra trong nghèo khó, cay cực. Nhưng đời Mẹ là một khúc ca tạ ơn:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng,

Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới.

Từ nay hết mọi đời,

Sẽ khen tôi diễm phúc”.

Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại Cana. Không phải tình cờ mà ngài đã chọn một bữa tiệc cưới để thực hiện phép lạ.

Làm phép lạ tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng mối quan tâm hàng đầu của Thiên Chúa chính là niềm vui, là hạnh phúc của con người. Có thể nói được rằng Chúa muốn đời người vui như một đám cưới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh uyên ương và tình nghĩa vợ chồng để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa dành cho con người. Tình Yêu đó đã bị đổ vỡ vì tổ tông con người kiêu căng và ích kỷ.

May thay,

Thiên Chúa vẫn là Tình Yêu, Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay giải thích cho chúng ta rằng qua trung gian Đức Maria, Thiên Chúa đã sai Con một Ngài đến để nối lại mối dây tình nghĩa con người đã cắt đứt. Qua đó Thiên Chúa muốn khẳng định rằng Tình yêu là giải pháp duy nhất có thể hàn gắn lòng người, xây dựng lại đổ nát chiến tranh và xã hội. Bởi vì tình yêu theo nghĩa Tin Mừng là tình yêu không phân biệt chính kiến, lý lịch, quá khứ hay đối tượng. Tình yêu đích thực phải là tình yêu dành cho mọi người, bất kỳ ai, chỉ vì họ là người, cỉ vì họ là hình ảnh Thiên Chúa.

Đó là điều Mẹ Maria của chúng ta đã làm tại tiệc cưới Cana. Mẹ bất chấp những phức tạp của hiện trường, Mẹ chỉ nghĩ đến cứu vãn tình thế.

Đó cũng là điều rất đáng cho chúng ta quan tâm trong bối cảnh cuộc hành hương mang chủ đề “Mẹ Maria, thầy dạy đức tin” này. Mẹ là gương mẫu tuyệt đối cho kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa. Tại tiệc cưới Cana, Mẹ không cần ai biết đến. Mẹ luôn ở nhà sau, hậu trường, âm thầm theo dõi mọi diễn biến và Mẹ là người đầu tiên đã khám phá nguy cơ hết rượu.

Thái độ của Mẹ hoàn toàn khác với Adam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng chúng ta nghe trong bài đọc I. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Adam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: Không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời.

Tiệc cưới Cana hết rượu, Mẹ không đổ lỗi cho ai. Mẹ nhận lấy trách nhiệm trước tình huống cần cứu giúp. Để rồi sau đó nhờ Mẹ mà ngàn muôn “con tim đã vui trở lại” tại tiệc cưới Cana.

Đó cũng chính là bài học và thông điệp Mẹ gửi cho chúng ta trong kỳ đại hội này.

Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Chúng ta hãy tin rằng Mẹ cũng sẽ nói với Chúa Giêsu rằng:

“Này con,

Con cái của Mẹ đã hết rượu

Hết rượu nghị lực và phấn đấu,

Hết rượu khoan dung và tha thứ,

Hết rượu thân ái và thiện chí,

Hết rượu quảng đại và dấn thân...

Nhưng Mẹ không giải quyết. Mẹ giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta : “Ngài bảo gì chúng con cứ làm theo”. Mẹ muốn chúng ta là người phục vụ như gia nhân tại tiệc cưới Cana. Mẹ muốn chúng ta là chiến sĩ âm thầm xây dựng hạnh phúc và niềm vui của muôn người.

Nếu đời là đám cưới hết rượu, nếu rủi ro tai nạn làm se sắt con tim đồng loại, nếu cô đơn phản bội làm tan nát lòng ai, nếu đại cuộc Giáo Hội và xã hội bị đóng băng vì chia rẽ hiềm thù, thì chúng ta, vâng chính chúng ta, sẽ là những người dọn đường cho Chúa tái diễn phép lạ Cana: làm cho con tim mọi người tìm lại niềm vui. Chính chúng ta sẽ là gia nhân phục vụ đám cưới cuộc đời.

Cùng với Chúa cống hiến cuộc đời cho nhân loại, đó là bí quyết hạnh phúc của Mẹ.

Sau khi gặp Mẹ, rời linh địa La vang, chúng ta cũng sẽ hạnh phúc như thế, sẽ tìm lại niềm vui đã mất, nếu chúng ta biết sống như Mẹ. Amen.

+ Giuse NGUYỄN CHÍ LINH

Giám mục Giáo Phận Thanh Hóa

Vân Sơn (ghi)

Mục lục

Ôi Trời Ơi…”

 

“Tư tưởng của Ta, không phải là tư tưởng của các ngươi, Đường lối của Ta, không phải là đường lối của các ngươi, Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối và ý nghĩ của ta cũng vươt xa đường lối và ý nghĩ của các ngươi như vậy!” (Isaia 55:8-10)

Hằng ngày, qua các tin tức và hình ảnh trên các phương tiện truyền thông hiện đại, chúng ta có thể thấy bao nhiêu con người khổ đau trên thế giới vì chiến tranh, vì các tai nạn lưu thông, vì các biến cố thiên nhiên như động đất, bão tố, lụt lội… Chúng ta nhìn thấy những con người quá đau khổ đã vật vã, vò đầu, bứt tóc để than khóc trông thật thảm thương, và kêu la: ‘Ôi Trời ơi là Trời… Trời ở đâu để tôi khổ như thế này ! Tôi tội tình gì mà trời hành hạ tôi như thế này…’

 

Nhiều người Việt Nam chúng ta đã sinh ra và lớn lên trong chiến tranh tại Việt Nam, từ miền Bắc vào đến miền Nam, và chúng ta đã chứng kiến bao cảnh đau khổ của bao người chung quanh. Những tai nạn đó thường xãy ra cho những người, những gia đình ‘hiền lành, đạo đức, lương thiện’. Một gia đình tôi quen biết ở ngoài Bắc, gia đình thật tốt lành, làm ăn lương thiện và rất thuận hòa, kể như ‘Ngũ đại đồng đường’… thế nhưng một ngày kia, đạn đại bác đã bắn vào làng và giết hại ngay người con cả, bốn đứa cháu nội, một người con dâu bị đứt lìa một cánh tay phải chịu tật nguyền suốt đời, nhà cửa cháy bình địa.

 

Một gia đình khác ở vùng ngoại ô Sàigòn, tuy nghèo khổ, nhưng rất đạo đức, sống hiền lành và hòa thuận với mọi người trong khu xóm. Ông bà chỉ có hai người con trai lớn và một cô con gái. Hai ông bà suốt ngày đi làm ăn vất vả để nuôi sống gia đình. Nhưng dù bận rộn mấy mặc lòng, ông bà vẫn dậy sớm để đi dâng Thánh lễ hàng ngày. Hai người con trai khi lớn lên và học hết trung học, đã vào quân đội để phục vụ cho tổ quốc. Gia đình đang sống trong niềm vui vì con cái lớn lên đã thành đạt và sống đàng hoàng tử tế. Nhưng người anh cả đã hy sinh trong biến cố Mậu Thân. Người em đang ở mặt trận, được nghỉ phép để về đưa đám tang người anh; sau đó trở về đơn vị. Chỉ nữa tháng sau, chính người em này cũng bị tử trận trên chiến trường. Chúng ta có thể tưởng tượng ông bà đau khổ đến chừng nào.

 

Ngày nay nhìn lại những thảm cảnh trong biến cố Tết Mậu Thân ở Huế, chẳng hạn, chúng ta thấy con người quá đau khổ như ‘mất hồn’, vật vã khóc than, lăn lộn trên mặt đất, trên bùn lầy… như không thiết gì sống nữa.

 

Ngay tại đất nước văn minh Hoa Kỳ này, hàng ngày cũng có bao cảnh đau khổ xảy ra vì những tai nạn thiên nhiên, vì tai nạn giao thông… Nguyên tai nạn giao thông trên đất nước Hoa Kỳ một năm trung bình giết hại vào khoảng 58 ngàn người, để lại bao cảnh tang tóc đau thương. Mới đây nhất (gần nữa đêm ngày 07/08/2008) là cảnh tượng khủng khiếp của "chuyến xe định mệnh" mà chúng ta đều đã biết. Một tai nạn xe hơi khủng khiếp có tính cách quốc gia mà các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới đều đã loan báo. Tai nạn khủng khiếp của chuyến xe chở 55 người, đã cướp đi sinh mạng 18 người, và những người khác bị thương tật nặng nhẹ. Có thể sẽ còn những người qua đời nữa, hoặc bị tàn tật suốt đời. Họ là ai ? Là những người đạo đức đi hành hương ngày Đại Hội Kính Đức Maria. Họ là những người tốt lành, đạo đức, hàng tuần vẫn họp nhau cầu nguyện chung trong Hội đoàn "Đạo Binh Đức Mẹ", hàng tuần vẫn hy sinh thời giờ họp mặt rồi đi thăm viếng và an ủi các người già nua tuổi tác, các bịnh nhân, các gia đình gặp hoạn nạn… Vậy mà tai nạn thảm thương đã xãy ra cho chính họ ngay trên đường hành hương để thờ phượng Chúa và kính Đức Mẹ Maria.

 

Theo Thánh Kinh:

"Thiên Chúa là Cha chúng ta,

Ngài là Đấng từ bi và nhân hậu,

Lòng từ ái của Chúa bền vững qua muôn thế hệ…" (Thánh vịnh 100)

 

Thế nhưng, thế giới thời nào cũng đầy những khổ đau; lúc nào cũng có bao nhiêu người gặp cảnh khốn khó, ngay cả những người tốt lành, đạo đức?

 

Đây là câu hỏi đã được đặt ra từ lâu trong Thánh Kinh; như trong sách tiên tri Giêrêmia, sách Ai Ca, Sách Judith, trong nhiều Thánh Vịnh.

 

Người Do Thái ngày xưa trong lúc gặp cảnh đau khổ cùng cực, cũng đã kêu la, trách móc: “Đức Giavê ở đâu? Sao người lại ngoảnh mặt làm ngơ?” (Giavê “Yahweh” tên gọi Thiên Chúa trong Thánh kinh Cựu Ước). Thậm chí chúng ta còn có thể đọc được những lời than trách: “Lạy Giavê Thiên Chúa, Ngài ở đâu mà không cứu vớt chúng tôi… để cho “Dân ngoại” (người Do Thái thời xưa thường gọi các dân tộc ngoài Do Thái bằng danh từ “Dân ngoại” “Goiim” “Gentiles”) chê cười: “Chúa chúng nó ở đâu?” (Tv. 123). Đề tài này đã là nguồn cảm hứng của Bản Thánh ca “Chúa hỡi! Chúa ơi! Nhân sao Chúa bỏ tôi. Vì đâu tôi khấn xin. Người không thương đoái nhậm lời….” (Kim Long).

 

Vào khoảng đầu thế kỷ V trước Chúa giáng sinh. “một tác giả và là một nhà văn đã viết cuốn sách Gióp được coi như một bản Thánh Kinh văn chương tuyệt tác, có tính cách giáo huấn dân Chúa và giải quyết những vấn đề đau khổ xảy ra trên thế giới…” (Theo The New American Bible).

 

Câu chuyện kể lại cuộc đời Ông Gióp, một người tốt lành, có lòng đạo đức, đông con cái, làm ăn giàu có, gia đình sống an vui thuận hòa. Nhưng rồi “Satan đã được phép Thiên Chúa” làm cho xảy ra những biến cố khủng khiếp đến với gia đình ông. Hết tin dữ này đến tin dữ khác dồn dập xãy ra cho gia đình ông (vì thế có câu nói “tin như tin thánh Gióp!), của cải bị tiêu tán hết, con cái chết cả; chính ông lại bị bịnh ghẻ lỡ ngứa ngáy suốt thân thể.

 

Trước những đau khổ khủng khiếp đến tuyệt vọng đó, ông Gióp vẫn một lòng tôn kính Thiên Chúa, không một lời nguyền rủa, than trách; nhưng luôn khiêm tốn nhận ra ý Chúa và vâng phục, và vẫn mở lời ca tụng Chúa: “Tôi đã lọt lòng mẹ trần trụi; tôi cũng sẽ trở về với lòng đất trần trụi. Giavê đã ban, Giavê cất đi. Chúc tụng Thiên Chúa Giavê!”.

 

Nhưng vợ ông Gióp lại chế diễu ông: “Ông ơi, ông còn cương quyết sống liêm chính nữa thôi! Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!”. Ông Gióp đã phản bác lại: “Bà nói như một người điên. Chúng ta nhận được những điều tốt lành của Thiên Chúa, làm sao chúng ta lại không vui lòng chấp nhận những bất hạnh, khổ đau?”.

 

Các bạn ông Gióp đến an ủi ông, thì lại cho là ông phải chịu các khổ đau ấy do tội phạm của ông. Đó là hình phạt của Thiên Chúa. Nhưng ông Gióp không chấp nhận lời kết án đó. Sau cùng chính Thiên Chúa tỏ cho mọi người biết (Từ chương 38): Những điều bất hạnh vẫn xãy ra trên thế giới, ở mọi nơi, mọi thời, và cho “kẻ lành” cũng như “người dữ”. Chính những đau khổ đó thử thách, đào luyện và củng cố đức tin và lòng trung thành phó thác nơi Thiên Chúa của mỗi con người mà Chúa dựng lên “theo hình ảnh Chúa”.

 

Khi đươc sự may mắn, chúng ta tạ ơn Chúa. Khi gặp sầu khổ, chúng ta cũng tạ ơn Chúa “đã cho chúng ta được chịu đau khổ để được thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu” (Sách Tông Đồ Công Vụ 5, 41).

 

Tóm lại, “những đau khổ, những khó khăn trong cuộc sống, chính là những thử thách để đào luyện lòng tin tưởng phó thác của chúng ta nơi Thiên Chúa, như Thiên Chúa cũng đã thử luyện tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop…” (Sách Judith 8, 25…)

 

Thời gian trôi đi nhanh chóng ‘như bóng ngựa qua cửa sổ!”, cuộc đời con người thì ngắn ngủi. Hạnh phúc và khổ đau ở đời này cũng qua đi nhanh chóng. Chỉ có hạnh phúc trong cuộc đời sau mới vĩnh viễn tồn tại. Sau hết, “kẻ lành người dữ” đều cùng phải chấp nhận sự đau khổ cuối cùng của cuộc đời là “sự chết” (sinh ký tử quy, sống gửi thác về). Mọi người điều phải chết. Con người chết ở bất cứ tuổi nào. Có người chết trong tuổi còn hoa niên, có người chết trong tuổi già. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chúng ta đến gần nấm mộ của chúng ta hơn. Mọi sự đều qua đi, và trôi vào dĩ vãng. “Người khôn ngoan thì khiêm tốn theo nhận ra ý Chúa và chấp nhận ý Chúa, biết sống cuộc đời có ý nghĩa, biết tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.” (Theo sách Khôn Ngoan).

 

Thiên Chúa là Đấng Công Chính, người sẽ phán xử mọi người tùy theo điều lành, điều dữ họ đã làm; vì Người nhìn thấy rõ “mọi việc bí ẩn nơi con người”. (Thơ Rôma 12, 14…) (Hoàng thiên hữu nhãn! Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân!).

 

Tóm lại, bài học Sách Gióp muốn dạy chúng ta là: Tâm trí con người dù thông minh đến đâu cũng không thể nào hiểu nổi được những đường lối kỳ diệu của Thiên Chúa; “ý Chúa nhiều khi thật khủng khiếp!” “Đường lối Chúa ai mà hiểu nổi!…” (Isaia 55, 8…). Chỉ những ai có đức tin nơi Thiên Chúa “Đấng tạo thành ta” và niềm tin vào cuộc đời sau, mới có thể nhận ra và thuần phục ý Chúa và tin tưởng nơi Chúa trong mọi sự, và biết phó thác “đường đời cho Chúa, chính Người sẽ nâng đở che chở cho chúng ta qua mọi bảo tố của cuộc đời và cuối cùng sẽ đưa chúng ta tới bến bình an!” (Thánh vịnh 62).

 

Tuy nhiên Đức Tin của chúng ta luôn luôn bị thử thách. Như người cha của đứa bé bị ‘qủy câm ám’, chúng ta hãy xin cùng Chúa: “Lạy Chúa, chúng con tin. Nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của chúng con!” (Matcô 9,24).

 

Lm Anphong Trần Đức Phương

Mục lục

 

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN GIÁM MỤC GIÁO PHẬN DALAT TRONG NGÀY HIỀN MẪU GIÁO HẠT BẢO LỘC – 22-8-2008

 

Sau khi chúng ta nghe 3 bài Kinh Thánh, giờ đây chúng ta để ra một vài phút để suy niệm xem Chúa muốn nói với chúng ta điều gì?. Có lẽ một trong những điều đầu tiên là Chúa muốn giải thích một thắc mắc ở trong lòng của chúng ta. Thắc mắc đó là tại sao: Đức Maria rất khiêm tốn, chỉ dám nhận mình là nữ tì của Chúa, mà giờ đây Giáo hội lại phục vụ và chúng ta lại tôn vinh Đức Maria là Nữ Vương. Điều đó có đẹp lòng Chúa hay không?! Tôi thấy rất dễ trả lời: Chúng ta chỉ cần lấy biến cố truyền tin chúng ta vừa nghe, một biến cố sâu sắc, một mặc khải cao cả chúng ta không thể hiểu hết được dù chúng ta có dành nhiều thì giờ tìm hiểu. Vì thế cho nên tôi xin mời anh chị em dừng lại ở một lời chi tiết mà thôi: Thiên Thần theo lệnh Chúa truyền nói với Maria là hãy nhận làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì Đấng Cứu Thế sẽ được gọi là con vua Đavít, Ngài sẽ lên cai trị, và triều đại của Ngài sẽ vô cùng tận. Một ông vua ở trong thế gian có khi cai trị chỉ được vài ngày, vài tháng, vài năm, nhiều lắm cũng vài chục năm...Thì người mẹ sinh ra ông ấy cũng được gọi là nữ hoàng. Nhưng mà vua đó thì nghĩa lý gì, có khi ông ấy tiếp ngôi của người khác, có khi ông ấy dùng mưu mẹo, bạo lực. Còn nơi Chúa Giêsu, bản chất Ngài là Vua. Cho nên nếu Ngài là Vua và triều đại của Ngài là vô cùng tận, thì mẹ của Ngài là Đức Maria phải là Nữ hoàng. Điều đó không thể tranh cãi được. Nhưng phải đào sâu hơn, Đức Maria là Nữ hoàng không phải vì Đức Maria mang một thai nhi, thai nhi đó là hoàng tử, thai nhi đó trở nên vua; không phải chỉ có vậy! Mà Đức Mẹ đã trở nên Nữ hoàng là vì Đức Mẹ đã đóng – sống vai trò làm mẹ của mình một cách tuyệt hảo, đến mức độ khiến người con đó cũng phải tôn sùng: Người này là mẹ tôi, không phải chỉ vì cưu mang tôi, sinh ra tôi, cho tôi được bú mớm và giáo dục, dưỡng dục tôi...Người này còn hơn thế nhiều nữa, vì người này còn luôn luôn biết lắng nghe lời của cha tôi và đem ra thi hành. Cho nên tước hiệu Nữ hoàng của Đức Maria vượt lên trên những nhận định của con người trần thế và phải đưa chúng ta lên trên các điều kiện siêu nhiên, chúng ta đi trên những điều đó chúng ta mới thấy được vẻ đẹp, mới thấy được những công việc, mới thấy được những xứng đáng khi chúng ta tuyên xưng Đức Maria là Nữ Vương chúng ta.

 

Đức Maria trở nên Nữ hoàng vì Người đã vâng lời Thiên Chúa để làm bạn của Thánh Giuse. Nói một các khác, Đức Mẹ đã vâng lời Chúa để trở nên một người vợ, dù là trong ý định Đức Mẹ tôi không biết đến người nam, không biết đến việc vợ chồng...nhưng vâng lời, tôi xin nhận lời. Cho nên chính sự nhận lời đó, Đức Mẹ đã vượt lên trên chức năng làm vợ của tất cả mọi người. Và cũng vì vâng lời mà Đức Mẹ đón nhận một hài nhi Giêsu trong dạ mình. Cưu mang, sinh đẻ, giáo dục, dạy dỗ cho đến khi người con đó chết trên thập giá...Đức Mẹ vẫn là một người mẹ tuyệt hảo. Cho nên chúng ta thấy những phần thưởng dành cho Đức Mẹ chính là chỗ Đức Mẹ đã thi hành sứ mạng làm vợ, làm mẹ theo ý muốn của Thiên Chúa, trọng tâm vấn đề là ở chỗ đó! Đức Mẹ không tìm cho mình một điều kiện, một quyết định mà Đức Mẹ lắng nghe, làm theo. Khi biết rằng ý của Chúa thì Đức Mẹ đã thực hiện: “Này tôi là tôi tớ của Chúa, xin làm cho tôi những gì Thiên Thần đã truyền lại”. Hoàn toàn theo Thánh ý của Chúa, cho nên Thiên Chúa không còn chỗ nào để chê được, “giảm giá” Đức Mẹ được. Vì vậy khi con một đã về bên hữu Đức Chúa Cha, ngự trị trong vinh quang thì Đức Mẹ phải được đặt làm Nữ hoàng. Cho nên chúng  ta luôn luôn phải tin vào Đức Mẹ.

 

Anh chị em không thể nên Thánh theo cách đó được, là vì Đức Mẹ ở trong thời kỳ cách đây 2000 năm. Năm trong trong lịch sử cứu độ, và có vai trò đặc biệt Chúa gọi. Ngày hôm nay Chúa cũng gọi các bà. Gọi như thế nào, trong bối cảnh như thế nào thì phải xem. Không phải bắt chước Đức Mẹ cách đây 2000 năm ở Nazaret. Nhưng mình nên Thánh bằng cơ hội của ngày hôm nay trong một sự việc cụ thể. Vì thế cho nên tôi nghĩ rằng sau khi chúng đã chiêm ngắm Đức Maria chúng ta phải trở lại với con người mà chúng coi như là giống như mình: cũng bình thường mà cũng nên Thánh. Có như vậy chúng ta mới bắt chước được.

 

Chúng ta nhìn vào bà Thánh Monica, bà Thánh Monica nên Thánh bởi ba nhiệm vụ mà bà đã nghe tiếng gọi của Chúa, và thi hành một cách Thánh thiện. Thứ nhất: nhiệm vụ làm vợ,  thứ hai: nhiệm vụ làm con dâu, thứba: nhiệm vụ làm mẹ. Trong cả ba nhiệm vụ đều xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa. Từ chương trình, từ kế hoạch của Thiên Chúa. Khi trở nên vợ, thì Monica đã nên Thánh như thế nào?... Tất cả các bà đã học tiểu sử của Thánh Monica, thì biết rằng Monica có ông chồng là Patricius. Chúng ta nhìn vào ông chồng đó: Patricius không phải là người chồng gương mẫu, không phải là một người chồng đáng khen ngợi. Vì trước hết ông sống không có niềm tin. Đặc biệt trong đời sống làm chồng, ông Patricius không trung thành...Tôi không dám kết tội ông vì nơi mỗi con người đều có khía cạnh tốt, khía cạnh xấu. Cho nên chúng ta nhìn vào con người chúng ta phải nhìn bằng cái nhìn Đức tin, bằng ánh sáng của Tin mừng để khám phá ra cái tốt và cái xấu nó luôn luôn trà trộn ở nơi một con người. Cho nên khi chúng ta nhận thấy được cái xấu, thì chúng ta cầu nguyện, chúng ta giúp đỡ, đễ người đó dần dần xa lìa cái xấu. Nhưng mà đừng có phủ nhận cái tốt ở nơi người đó. Vì nếu chúng ta phủ nhận cái tốt ở nơi người đó thì hóa ra người đó đối với mình không còn ý nghĩa gì hết. Nhưng nơi những người xấu vẫn có những điều tốt, tôi nghĩ Thánh Monica đã khám phá ra điều đó, nên Thánh Monica đã kiên trì cầu nguyện, làm gương tốt. Khi ông Patricius say sưa, chè chén thì Thánh Monica khiêm nhượng khuyên chồng. Cho nên trong vai trò làm vợ thì Thánh Monica vẫn trung thành với một người chồng không trung thành với mình! Nhưng vẫn biết được nơi người chồng đó vẫn còn mầm mống của sự tốt, và quả thật về sau một năm trước khi qua đời Patricius trở lại Đạo và trở nên một người rất tốt. Thánh Monica còn có một bà mẹ chồng rất khắt khe, nếu Thánh Monica có suy nghĩ: tôi lấy chồng chứ không phải cưới mẹ chồng, nghĩa là tôi chỉ phục vụ và lo lắng cho chồng, chứ thôi không cần biết đến người mẹ khó tánh - Nếu chúng ta có những suy nghĩ như vậy, thì tức khắc ở trong gia đình sẽ gây ra những sự xung khắc – Ngược lại, Thánh Monica đã biết kiên nhẫn đối với người mẹ chồng của mình và dần dần cảm hóa được, và điều trong cuộc sống của chúng ta thấy rất nhiều. Điều thứ ba: Monica đã nên Thánh trong chức năng làm mẹ. Đối với một đứa con là Augustinô, là một thanh niên thông minh, có nhiều hoài bão, muốn tạo cho mình một địa vị. Nhưng người mẹ biết con mình lìa xa gia đình, thì ngay tức khắc bị bạn bè lôi cuốn vào trong sự sa đọa. Cho nên Thánh Monica đã hết sức khuyên nhủ, năn nỉ. Nhưng Auustinô đã lừa dối mẹ mình để đi qua Rôma tạo dựng cho mình một sự nghiệp. Người mẹ kiên nhẫn vượt biển qua Rôma. Augustinô lại đi đến nơi khác là Milan và chính tại Milan Thiên Chúa đã cho Augustinô gặp Giám Mục Ambrôsiô là người đã thay đổi Augustinô. Nhưng để Augustinô có thể thay đổi là Augustinô thấy được sự thánh thiện và tình thương của người mẹ, đến một lúc ông không thể chống cự được nữa và phải mềm lòng, chuyển hướng, thay đổi cách sống đang buông thả của mình.

 

Thế là chúng ta thấy một người mẹ khác nữa cũng nên Thánh. Nhưng mà không nên Thánh theo cách thức của Đức Maria, mà theo cách thức, hoàn cảnh của mình. Vậy thì bây giờ đến các bà, các chị em ở đây đã lãnh nhận Bí tích Hôn phối, bí tích mà Thiên Chúa đã thiết lập nói lên sự kết hợp của người nam và người nữ, kết hợp Chúa Kytô và Hội thánh; là sự kết hợp Thánh thiện, cho nên Chúa đã rất kỳ vọng vào trong những cuộc hôn nhân, vào trong bí tích hôn nhân  mà chính các bà các chị không phải là đón nhận, mà khi học giáo lý thì các Cha đã nói chính các bà đã cử hành Bí tích đó, còn các Cha là người chứng kiến. Khi rửa tội thì các Cha đổ nước và rửa tội, còn mình nhận Bí tích Rửa tội. Nhưng khi nhận Bí tích Hôn phối là chỉ trong Tin Mừng chúng ta cử hành rồi Linh Mục đến chứng kiến, đó là điều rất là thánh thiện các chị em hãy hiểu ra. Đó là con đường nên Thánh của tôi. Mình và người chồng mình dù có khó khăn nhưng cũng không đến nỗi khó quá như Patrocius, vì mẹ chồng mình cũng không quá khó khăn như những gì Patrocius đã tường thuật lại và đứa con mình dù có thế nào đi nữa thì chắc nó cũng còn nhiều cái tốt lành. Chính trong đời sống cụ thể của mỗi bà, xét lại cho kỹ Chúa nói với mình những điều gì, Chúa dạy dỗ mình những điều gì, Chúa chờ đợi mình những điều gì? Rất là cụ thể và trong mỗi trường hợp đều có ơn của Chúa, trong mỗi trường hợp đều có ơn của Chúa Thánh Thần, hãy tin tưởng rằng mỗi người hãy hiểu rằng hạnh phúc là chính mình hãy tin tưởng, nếu bất hạnh thì hãy coi chừng chính mình đã phá hỏng.

 

Cho nên hãy tin tưởng vào đời sống hiện tại dù chưa được như mình mong ước nhưng chúng ta cũng biết được Chúa đã quan phòng như thế nào, và Chúa vẫn luôn luôn hiện diện, vẫn luôn luôn Thánh hoá, và đời sống tuy rằng trước mắt chưa có hạnh phúc nhưng đó là bí tích Chúa đã thiết lập, Chúa thiết lập để ban ơn cho chúng ta, các chị em hãy đón nhận, hãy tin tưởng và hãy nỗ lực để như Đức Mẹ, như bà Monica trước hết là để thực hiện theo Thánh ý của Chúa và khi thực hiện như vậy Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta đầy đủ để hoàn tất ý muốn của Chúa.

 

Ghi chép: Nguyễn Thành Trung

:www.simonhoadalat.com

Mục lục

 

 

 

Vu lan kính mẹ!


 “… Mỗi mùa xuân sang Mẹ tôi già thêm một tuổi

Mỗi mùa xuân sang ngày tôi xa Mẹ càng gần.

Dù biết như thế, tôi vẫn phải tin,

tôi vẫn phải tin Mẹ đang còn trẻ.

Mỗi mùa xuân về Mẹ thêm tuổi mới

Mỗi mùa xuân mới con mừng tuổi Mẹ


Với ý mượt mà nhưng đầy chất thực tế Trần Long Ẩn đã gợi lại cho mỗi người chúng ta một thực tại hết sức đau buồn về người mẹ của mỗi người chúng ta. Dẫu biết rằng mỗi mùa xuân sang tôi, vợ chồng tôi, con cái tôi và cả gia đình tôi thật vui đón mừng đón mừng xuân mới nhưng ai oán đâu đó bên dưới của niềm vui xuân mới một nỗi đau khôn tả đó là tôi cũng phải xa mẹ thêm chút nữa. Biết cái ngày đó là cái ngày chẳng ai muốn nó đến nhưng rồi nó lại đến.


Là con cái trong gia đình, đối diện với cái thực tế đau đớn đó ta sống thế nào với Cha mẹ ???


Chuyện buồn trong căn nhà nhỏ ở đường Hồ Đắc Duy - Cố Đô Huế của Đăng Khoa đăng trên Vietcatholic ngày 11 tháng 8 ai đọc xong không khỏi chạnh lòng. Nếu đó là sự thật thì đau quá! Ông bà xưa đã nói: “một mẹ nuôi mười con - mười con không nuôi được một mẹ !”. Hoàn toàn đúng cho trường hợp của ông bà Lựu – Đào. Cụ 90, bà 83 ! Ông bà không phải là vô sinh, ông bà không phải là không có đứa con nào! Ông bà có đến những 9 người con nhưng hầu như tất cả nói không sai sự thật là đều quay lưng với ông bà để ngày mỗi ngày ông cụ 90 tuổi đời vẫn phải nai lưng ra kiếm từng đồng bạc để nuôi vợ, nuôi thân! Cũng chẳng dám trách bầy con của ông bà, chắc có lẽ cuộc đời của họ quá kham khổ để họ không thể lo cho ông bà bữa cháo bữa cơm. Nhưng một vài đứa trong chín đứa thôi chứ chẳng lẽ cả 9 đứa đều phải lao đao với cuộc sống? Và giả như lao đao thì cái tuổi già của ông bà cũng chẳng mong gì hơn cơm cháo qua ngày đoạn tháng.


Nghĩ đến cụ Lựu, cụ Đào tôi lại nhớ đến một gia đình của một nữ tu nọ tận vùng đất đỏ Tây Nguyên. Vào nhà thăm bà cố thì phải nói rằng bà cố may mắn hơn cụ Lựu, cụ Đào về cái khoản vật chất chứ tinh thần thì như một cọng rơm khô bị bỏ rơi giữa đám lúa non mơn mởn. Bà cố năm nay cũng 85 rồi, cũng mệt mỏi, cũng bệnh lên tật xuống chẳng còn sống được bao lâu với con cháu nhưng con cháu cứ luận điệu rằng do công lên việc xuống nên cứ để bà đơn côi. Thậm chí, chỉ có một chuyện đơn giản là chỉ cần có một người cạnh bà để đỡ nâng bà khỏi té thôi nhưng cũng chẳng tìm ra, thi thoảng có đứa cháu rớt tốt nghiệp 12 ngủ với bà như là cho xong bổn phận.


Chào bà cố đi về nhưng lòng tôi nó làm sao đó! Cũng chạnh thương cho vị nữ tu ngoài 50 tuổi - đứa con thân yêu của bà – đã dâng mình cho Chúa. Vị nữ tu ấy cũng đã từng đề nghị với gia đình là thuê một người về chăm sóc mẹ nhưng gia đình không đồng ý. Không phải là không có tiền thuê người giúp nhưng mà họ sợ tai tiếng là không chăm sóc mẹ. Họ có chăng che giấu được cái vỏ bọc bên ngoài nhưng còn lương tâm họ họ đâu có thể che đậy mãi.


Một gia đình quen biết nọ đã dâng hiến một chị, một em cho Chúa để rồi gia đình quá trống trải, cô đơn. Biết rằng chị tư và anh năm của mình đã dâng trọn cuộc đời cho Chúa, biết rằng mình mà lập gia đình thì không còn giờ nhiều để lo cho mẹ nên cô em út đã quên đi cái cõi riêng, cái hạnh phúc của mình để lo cho mẹ. Thời gian thấm thoát qua đi, ngày mỗi ngày mẹ càng thêm tuổi, người em út đấy năm nay cũng đã ngoài năm mươi, tóc đã điểm bạc. Thương mẹ, thương anh, thương chị và có lẽ muốn cộng tác vào đời dâng hiến của anh chị nên cô út chấp nhận sống đời cô đơn để lo cho mẹ.


Cô út lo cho mẹ từng ly từng tý đến độ chỉ cần nhìn ánh mắt của mẹ là hiểu mẹ cần gì, muốn gì. Một lần nọ dùng cơm với gia đình, chị tư - vị nữ tu – cũng tỏ ra chăm sóc cho mẹ khi mẹ đang dùng bữa. Thế nhưng, làm sao quen được với người em của mình, vị nữ tu ấy đã xé miếng thịt gà cho mẹ mà không theo “sớ” của nó làm sao mẹ nuốt được ! Sau những dịp họp mặt gia đình hiếm có đấy, chị tư lại về cộng đoàn, anh năm lại trở vào chủng viện để coi chủng sinh. Chỉ còn lại hình ảnh người mẹ già và người em út đang dìu nhau trong những năm tháng cuối đời của mẹ. Chị tư, anh năm cũng phần nào yên tâm phụng sự Chúa nhờ sự hy sinh vất vả của người em út.


Ai cũng có cha, ai cũng có mẹ nhưng cách hành xử của con cái dành cho cha, dành cho mẹ tùy thuộc vào nhận thức của mỗi người. Có người sẽ xử với cha mẹ mình như con cái của cụ Lựu, cụ Đào, bà cố của sơ nọ vùng Tây Nguyên, có người sẽ xử như cô em út kia có anh và chị quảng đại dâng hiến đời mình cho Chúa.


Mỗi mùa xuân về, mỗi mùa vu lan đến nhắc nhở cho chúng ta về tình cha, nghĩa mẹ!


Chắc chắn một điều mà không ai phủ nhận được như Trương Quang Lục bộc bạch, đó là:


Trên trời cao có muôn ngàn ánh sao

Trên đồng xa có muôn ngàn cây lúa

Con chim rừng có muôn ngàn tiếng ca

Cây trong vườn có muôn ngàn lá hoa

Riêng mặt trời chỉ có một mà thôi

Và mẹ em chỉ có một trên đời

Riêng mặt trời chỉ có một mà thôi

Và mẹ em chỉ có một trên đời.


Vâng ! Cha và mẹ, chỉ có một trên đời chứ không thể nào có hai cha và hai mẹ ruột của ta được. Vì rằng chỉ có một và một mà thôi nên phận làm con, ta hãy sống sao cho đúng cái chữ đạo, chữ hiếu của con người, cách riêng người Việt Nam.


Đến đây tôi chợt nhớ chuyện “chiếc gáo dừa” tôi học từ ngày còn bé rất thâm thúy và thực tế. Con cái đối xử với cha mẹ mình thế nào thì sau này con cái của mình cũng sẽ đối xử với mình như vậy thôi. Và sách Huấn Ca đã từng nói với mỗi người chúng ta: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho cha mẹ an lòng” (Hc 3,3-6).


Một lần nữa, mùa Vu Lan – Mùa Báo Hiếu lại về mở ra cho mỗi người chúng ta về việc thờ cha kính mẹ của mỗi người chúng ta. Mỗi người, mỗi hoàn cảnh, mỗi cách thức hãy làm đẹp lòng cha, vui lòng mẹ khi cha mẹ còn sống vì nếu không khi cha mẹ mất rồi ta có muốn bù đắp gì cho cha mẹ đều nằm ngoài tay với !

 

Anmai, CSsR

Mục lục

 

Chìa khóa đời sống

Ngày nay hầu như ai cũng có chùm chìa khóa cầm mang theo mình: chìa khóa cổng, chìa khóa cửa nhà,chìa khóa garage, chìa khóa xe hơi, chìa khóa thùng thư, chìa khóa nhà bếp, chìa khóa cầu tiêu, chìa khóa thùng rác…


Dùng chìa khóa mở cổng, mở cửa đi vào trong, đi ra ngoài. Ngoài chìa khóa bằng sắt thép ta cầm trong tay, còn có loại chìa khóa ta phải nhớ trong đầu óc nữa: những con số hay chữ đúng theo thứ tự để mở đóng ổ khóa bằng số, bằng chữ mẫu tự.


Không chỉ nhà cửa, tủ bàn hay kho hòm có khóa đóng lại cần chìa khóa để mở. Nhưng đôi khi có những sách vở, hình ảnh, và lịch sử cũng cần đến chìa khóa để ra mới đọc hiểu được. Chìa khóa để mở kho tàng sách vở, hình ảnh lịch sử lẽ dĩ nhiên không làm bằng sắt thép kim loại hay bằng con số.


Những chìa khóa quan trọng trong đời sống con người chúng ta thường là những chìa khóa sống động kết tụ bởi thân xác và tâm trí máu mủ. Những chìa khóa đó là những người giúp ta mở lối đi vào đời sống. Cha mẹ chúng ta khác nào là người mở những ổ khóa của những căn phòng khác nhau trong đời sống cho ta bước đi vào khám phá học hỏi. Có thể nói họ là „chìa khóa đời sống“ của ta.


Cha mẹ, thầy cô giáo, cha xứ khác nào là những chìa khóa mở những cánh cửa tinh thần, cánh cửa đức tin đạo giáo, văn hóa đời sống giúp ta đi vào khám phá về cách ăn mặc, cách nói năng, cách gói mở, khai tâm biết đọc chữ, biết viết, biết làm toán, biết giáo lý của Chúa, đi vào khung trời sống đức tin thế nào. Họ là những mẫu gương sống động trong đời ta. Vì thế có những người suốt dọc đời sống luôn nhớ tới những „ chìa khóa đời sống“ này với tâm tình lòng biết ơn vui mừng hạnh phúc.


Trong phúc âm cũng thuật lại chuyện lịch sử về „chìa khóa đời sống“ ( Mt 16,13-20). Chúa Giêsu đặt ra những câu hỏi mang ý nghĩa chìa khóa quyết định: Anh em có biết dân chúng bảo Thầy ( Chúa Giêsu) là ai vậy? Và còn anh em, anh em cho Thầy là ai vậy?


Ông Thánh Phero trả lời ngay: Thầy là con Thiên Chúa, Lời sự sống, Đấng cứu thế trần gian.


Cách khác, Thánh Phero muốn nói như thế này: Thầy là chiếc „chìa khóa đời sống“ cho dân Israel, cho toàn thế thế giới, cho mọi thế hệ con người. Chiếc chìa khóa đời sống Thầy Giêsu mở ra cánh cửa bước đi vào đời sống tốt đẹp hoàn hảo, đời sống có ý nghĩa trọn vẹn.


Tại sao Thánh Phero lại có thể nói được: Thầy là chiếc „chìa khóa đời sống“ ?


Thánh Phero ngay từ buổi ban đầu, khi Chúa đi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu trực tiếp kêu gọi làm môn đệ đầu tiên theo Chúa sát bên cạnh suốt ngày đêm. Ba năm theo chân Thầy đi đó đây khắp nơi, nghe Thầy giảng dạy, cùng sống trải qua với Thầy Giêsu lúc vui, lúc buồn thất vọng, lúc Thầy Giêsu sống cầu nguyện, lúc Thầy biến hình, lúc Thầy làm phép lạ, lúc Thầy tiếp xúc cứu giúp với mọi con người, lúc Thầy chịu khổ nạn. ..


Từ cảm nghiệm sống chung sống động trong mối tương quan đó, Thánh Phero đã nhận ra Thầy mình là chiếc chìa khóa mở cửa đi vào khung trời đời sống đức tin dẫn đưa đến đời sống nơi Thiên Chúa. Ông đã nhìn ra chiếc chìa khóa Giêsu là mẫu gương của các chìa khóa đời sống tình yêu Thiên Chúa và con người.

Trong tương quan Thầy trò sống động, Thánh Phero đã tin tưởng cùng tiếp nhận chìa khóa đời sống đức tin Giêsu cho mình. Và Chúa Giêsu cũng tin tưởng trao cho Ông bổn phận không chỉ giữ gìn bảo quản chiếc „ chìa khóa đời sống đức tin“, mà còn phải dùng chìa khóa đó mở cửa giúp mọi người khác cùng bước vào khung trời đời sống đức tin nữa: Con là Phero, Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời.


Chúa Giêsu về trời đã trao lại chiếc chìa khóa đời sống đức tin cho Thánh Phero, cho các Tông đồ, cho Gíao Hội gìn giữ cùng mở cửa giúp con người bước vào Nước Trời.


Chiếc chìa khóa sự sống tinh thần đó cũng còn được trao cho mỗi người. Đó là mầm hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội trong Giáo Hội của Chúa ở trần gian, giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích.


Chiếc chìa khóa đời sống đó là khả năng thân xác cùng trí tuệ Thiên Chúa tạo dựng ban cho mỗi người từ khi thành hình sự sống trong cung lòng mẹ cha và trong suốt dọc đời sống: khả năng sống phát triển xây dựng đời sống riêng mình, đời sống gia đình, đời sống cộng đồng xã hội, và đời sống cộng đoàn Giáo Hội Chúa ở trần gian.

 

LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

 

 

TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI NỐI KẾT HAI KẺ THÙ THÀNH ANH EM

 

Câu chuyện xảy ra hồi giữa thế chiến thứ hai (1939-1945) nơi trận địa có hai kẻ thù giao tranh: quân Pháp đánh đẩy lui quân Đức.

Khi trận chiến khốc liệt kết thúc, một binh sĩ ngồi im cặm cụi mải mê viết. Anh ngồi viết giữa đám khói dâng cao ngút ngàn vì vật liệu bốc cháy. Chung quanh anh ngổn ngang thi thể binh lính tử thương. Nhưng anh hí hoáy viết và viết. Một bạn đồng ngũ đi ngang qua đó, ngạc nhiên đứng lại hỏi lý do. Anh thổn thức kể cho bạn nghe câu chuyện cảm động như sau.

Cuộc giao tranh diễn ra từ mấy giờ qua, khi còi hụ báo hiệu hiểm nguy bỗng rú lên từng hồi. Nhưng còi báo hơi trễ, vì tức khắc sau đó, các máy bay địch quần thảo dội bom như mưa. Người người gục chết như rạ.

Tôi bỗng nghe một tiếng nổ rung trời lở đất. Tôi bị hất tung lên cao rồi bị rơi ập xuống đất. May mắn là tôi không hề hấn gì. Trái lại, cách tôi không xa, ngã gục hai binh sĩ. Một binh sĩ Đức. Một binh sĩ Pháp. Hai người nằm sóng soài cạnh nhau. Binh sĩ Pháp ngước nhìn binh sĩ Đức. Binh sĩ Pháp trông bề ngoài có vẽ bị thương kém nặng hơn. Nhưng anh phải đau đớn dữ dằn lắm. Vào một lúc, tôi thấy anh đưa bàn tay bị thương vào túi áo và kéo ra cỗ tràng hạt Mân Côi dính đầy máu.

Thương binh Pháp bắt đầu đọc kinh bằng tiếng la-tinh: ”Ave MARIA .. Kính mừng MARIA”. Anh không còn sức lực. Anh yếu dần. Dầu vậy, anh vẫn tiếp tục lần hạt Mân Côi: ”Ave MARIA .. Kính mừng MARIA”. Từng lời kinh phát ra từ đôi môi mấp máy, đó là trọn sức lực còn lại của anh. Anh đau đớn vô cùng. Nhưng anh vẫn thì thào cầu nguyện và nhìn đăm đăm chàng thương binh kẻ thù người Đức nằm bên cạnh.

Ngừng một lúc như lấy lại sức, thương binh Pháp giơ cánh tay có cỗ tràng hạt Mân Côi hướng về phía thương binh Đức. Tràng hạt Mân Côi chạm đến cánh tay chàng thương binh Đức. Chàng thương binh Đức chậm rãi giơ tay cầm lấy đầu kia của tràng hạt Mân Côi và đáp lại phần thứ hai, cũng bằng tiếng la tinh: ”Santa MARIA - Thánh MARIA”.

Chàng thương binh Pháp điểm nhẹ nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt đau đớn. Đôi dòng nước mắt hiền hòa lặng lẽ từ từ lăn dài xuống hai gò má nhợt nhạt. Cánh tay cầm tràng hạt của chàng thương binh Pháp hơi run nhè nhẹ. Chàng thật cảm động. Chàng như muốn siết chặt hơn, kéo lại gần hơn tràng chuỗi Mân Côi đang nối kết hai kẻ thù trên chiến trường thành hai anh em, trong cùng tâm tình trìu mến dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc.

Chàng thương binh Đức cũng cảm động không kém. Chàng mĩm cười đáp lại nụ cười của thương binh người Pháp. Chàng chăm chú nhìn bạn. Nhưng, chàng thương binh Pháp đã khép chặt đôi mắt. Chàng đã tắt thở!

Giờ đây chỉ còn lại mình chàng thương binh Đức đọc trọn lời kinh Ave MARIA .. Santa MARIA. Chàng tiếp tục lời kinh Mân Côi của kẻ thù, giờ đây trở thành anh em cùng Đức Tin Công Giáo, cùng lòng yêu mến.

Khi chứng kiến và chiêm ngắm cảnh tượng trên đây, tôi có cảm tưởng không phải tràng chuỗi Mân Côi nối kết hai kẻ thù thành bạn hữu, cho bằng, chính Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA đang hiện diện và chính Đức Mẹ thắt chặt hai bàn tay của hai chàng thương binh Pháp-Đức trong vòng tay hiền mẫu của Mẹ.

Sau cùng, chàng thương binh Đức gồng mình lên, trong sức kháng cự cuối cùng với thần chết. Rồi thân xác chàng ngã gục xuống. Chàng dùng sức lực cuối cùng đọc lên thật lớn hai lần: Amen! Amen! Xong, chàng nghiêng đầu tắt thở!

Chuyện gì xảy ra tiếp liền sau đó, tôi không thể kể lại được. Có những chuyện chúng ta chỉ biết rõ khi về trời. Một điều tôi có thể nói:

- Tôi trông thấy hai luồng sáng phát xuất từ hai thân xác bất động của hai binh sĩ Pháp-Đức. Hai luồng sáng chạm vào nhau làm thành ”luồng-chớp” xé tan bầu khí đang đông đặc sen sì!

... ”Chúa ưa chuộng đất nước này, lạy Chúa. Nhà Gia-cóp lưu đầy, Ngài đưa dẫn về đây. Tội vạ của dân, Ngài tha thứ. Hết mọi lỗi lầm, Chúa phủ che. Chúa dẹp trận lôi đình, Ngài nguôi cơn thịnh nộ. Xin dẫn chúng con về, lạy Chúa Trời cứu độ. Điều phiền trách chúng con, xin Ngài thương quên bỏ. Lạy Chúa, xin tỏ ra lòng Ngài nhân ái. Và tặng ban chúng con ơn Ngài cứu độ .. Ân nghĩa tín thành nay hội ngộ. Hòa bình công lý đã giao duyên. Thành tín mọc lên từ đất thấp. Công bình ngó xuống bởi Trời cao. Chúa tặng ban nguồn ân huệ dồi dào. Đất đai này trổ sinh ngàn hoa trái. Công lý mở đường đi trước Chúa. Cứu độ cùng theo vết chân Người” (Thánh Vịnh

84).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.8, 16-2-2003, trang 13)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008

Bài 4 :

NGÔN NGỮ CỦA THẬP GIÁ TRONG CÁC THƯ PHAOLÔ

(LE LANGAGE DE LA CROIX DANS LES ÉCRITS PAULINIENS par Chantal Reynier)

 

Chúng ta có thể khám phá khuôn mặt nào của Thiên Chúa và khuôn mặt nào của con người trong "ngôn ngữ của thập giá" mà Phaolô nói tới? Hay nói một cách trực tiếp hơn: đau khổ và sự chết có ý nghĩa gì đối với kitô hữu? Chantal Reynier mời chúng ta đi sâu hơn vào tư tưởng của Phaolô.

                                                                                  Lm. Gioan Boscô Cao Tấn Phúc

 

Có bằng tiến sĩ thần học, Chantal Reynier dạy môn chú giải Tân ước tại Centre Sèvres ở Paris. Bà đã xuất bản: Evangile et mystère. Les enjeux théologiques de lEpitre aux Ephésiens (Paris, Cerf, 1992) và l’Evangile du Ressuscité. Une lecture de Paul (Paris, Cerf 1995).

Chúng ta có thể khám phá khuôn mặt nào của Thiên Chúa và khuôn mặt nào của con người trong "ngôn ngữ của thập giá" mà Phaolô nói tới? Hay nói một cách trực tiếp hơn: đau khổ và sự chết có ý nghĩa gì đối với kitô hữu? Chantal Reynier mời chúng ta đi sâu hơn vào tư tưởng của Phaolô.

 

............

 

Kiểu nói "ngôn ngữ của Thập Giá" chỉ xuất hiện trong các thư Phaolô và xem ra đó là cả một cương lĩnh (quasiment programmatique). Nói như thế có phải là cho rằng mọi công bố Tin Mừng đều chỉ qui về mỗi một việc là công bố thập giá hay không? thập giá mà người ta rất thường biểu dương nhằm khích lệ các kẻ tin, cũng như rất thường loại bỏ do việc nó đề cao sự đau khổ. Trong trường hợp này, các thư Phaolô không đầy dẫy những mâu thuẩn đó hay sao? Thực vậy, Phaolô khẳng định ngài "đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh" (1 Cr 2,2) và đồng thời, ngài công bố là vô ích một đức tin muốn chối bỏ việc Phục Sinh. Trong thư gởi tín hữu Roma, trong khi công bố lòng thương xót dạt dào của Thiên Chúa, Phaolô nói đến Ðấng đã treo Con của Người trên thập giá làm nơi xá tội (x. Rm 3,25).


Gương mặt nào của Thiên Chúa
được trình bày trong câu nói đó? Và gương mặt nào của con người? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa, vì muốn xoa dịu cơn giận do tội lỗi loài người gây ra, đã đi tới chỗ bỏ mặc Con mình trên một cây thập giá? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa cho rằng mình đã được phục hồi quyền lợi bởi lẽ một người vô tội đã trả nợ thay cho nhân loại tội lỗi? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa bắt con người bước vào chỗ của tội nhân được cứu chuộc? Như thế làm Kitô hữu có phải hệ tại tìm kiếm cách vô vọng để được đúng luật với một vị Thiên Chúa chỉ thấy sự khốn cực của con người? Ðó là những hệ luận do kiểu nói "ngôn ngữ của thập giá" của vị Tông đồ đặt ra. Nhưng ngài đã thật sự nói gì về thập giá?

 

Thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển

 

Muốn hiểu bản chất và vai trò của thập giá như được biểu lộ trong các bản văn, trước hết cần phải thu thập từ ngữ liên quan đến thập giá là một đồ vật gồm một cọc đứng và một đà ngang. Ðó là những tiếng: thập giá, giá treo cổ, và những động từ: đóng đinh vào thập giá, đóng đinh, treo lên. Tuy nhiên những từ này lại vắng bóng trong những thư đầu tiên của Phaolô (1 và 2 Tx), là những bức thư còn rất gần với biến cố đóng đinh thập giá, cũng như vắng bóng trong những thư cuối cùng, những thư mục vụ. Nhất là những từ vựng này vắng bóng trong những công thức công bố Tin Mừng (formules kérigmatiques) quan trọng (1 Tx 4,14; 1 Cr 15,3; Rm 8,34); trong những công thức ấy, sự chết chỉ được được nhắc tới như thực tại song đối với sự phục sinh. Sau cùng, những từ đó không xuất hiện trong lãnh vực khuyến thiện, đang khi chủ đề thập giá sẽ được đề cập nhiều trên bình diện luân lý và tu đức.


Những qui chiếu về thập giá thực ra không nhiều - tổng cộng 23 lần, nếu người ta căn cứ theo ngữ vựng chính xác -; Phaolô không khác gì lắm với các tác giả tin mừng là những người nhắc tới thập giá với nhiều dè dặt. Một nhận xét như thế có cho phép ta qui kết rằng diễn từ của Phaolô về thập giá, được thu gọn trong một vài qui chiếu, đã được phóng đại do những lần đọc lại khác nhau đã được thực hiện theo dòng thời gian?


Thập giá nói ở đây chỉ liên quan đến Ðức Giêsu Kitô. Thập giá chỉ đáng quan tâm trong mức độ nó là thập giá của Ðức Chúa vinh hiển. Ngay cả trong trường hợp liên quan đến kitô hữu, thập giá này luôn qui chiếu về thập giá của Ðức Giêsu Kitô. Như thế, các bản văn gợi lên hai phương diện, một phương diện kitô học và một phương diện nhân loại học; hai phương diện này, nếu đúng như vậy, sẽ cho phép loại bỏ một số hàm hồ.

 

Một biến cố, chướng kỳ và điên rồ

 

Khi Phaolô nói tới thập giá, thì trước tiên và trên hết ngài nhắm tới một biến cố cụ thể mà các sách tin mừng nhất trí ấn định tại một nơi có tên là Golgotha, và vào một thời điểm, áp ngày sabát, ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, mặc dầu vị Tông Ðồ không bao giờ ám chỉ tới thời điểm ấy hay tới nơi chốn ấy. Ðó là một biến cố lịch sử, nên ta phải quan tâm tới sự đánh giá của các nền văn hoá đồng thời với nó.


Cây gỗ trên đó Ðức Giêsu bị treo là một vật gia hình tàn ác và ô nhục. Ðối với người Rôma, hình phạt ấy bất xứng ngay cả với công dân đáng khinh bỉ nhất của họ; nó dành cho những tên nô lệ. Người ta có thể hiểu dễ dàng tại sao kẻ bị treo trên thập giá dầu thế nào đi nữa cũng không thể là một vị thần, cũng không thể là một trong những vị thần ẩn tàng thỉnh thoảng ghé thăm trái đất, càng không thể là một vị anh hùng biết cách biến hình đổi dạng. Dám coi kẻ chịu đóng đinh thập giá là một vị thần, đó thật là một sự điên rồ. Ðối với người Do Thái, kẻ bị treo là một người bị Thiên Chúa chúc dữ theo khẳng định của Ðnl 21,22: chướng kỳ này được nhân đôi nếu kẻ bị treo nầy tự xưng là đấng Mêsia muôn dân trông đợi. Ðối với những kẻ này, ngôn ngữ của thập giá là điên rồ, một sự vô nghĩa tuyệt đối, một sự phi lý; đối với những kẻ khác, đó là một chướng kỳ, một cớ vấp phạm (1 Cr 1,23). Như thế, thập giá là cái lật đổ các nền văn hoá ngay chính tại điểm các nền văn hoá ấy đang trông chờ (trông chờ sự khôn ngoan hay trông chờ đấng Mêsia).


Bởi vì thập giá luôn là thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển, nên thập giá qui chiếu về Phục Sinh. Thập giá với tư cách là thập giá không thay đổi gì cho dòng lịch sử. Ðức Giêsu với tư cách kẻ chịu đóng đinh thập giá ở vào số tất cả những kẻ chịu đóng đinh thập giá mà không ai nhớ đến tên họ. Hãy nghĩ tới hai ngàn người Do Thái bị đóng đinh thập giá dưới triều vua Áckêlaô hay là tới vô số kẻ trộm cướp bị treo trên thập giá thời quan Phêlíc, tổng trấn xứ Giuđê.


Thập giá chỉ có ý nghĩa dưới ánh sáng của phục sinh. Bởi vì đấng bị đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, nên lịch sử thay đổi chiều hướng. Bởi đó, do tính cách đặc biệt của đấng bị đóng đinh vào đó, thập giá hạ bệ tất cả những đường lối khôn ngoan. Không ý thức hệ nào, không nền văn hoá nào có thể giam hãm thập giá và đồng thời, các ý thức hệ và các nền văn hoá có thể hoàn toàn bị thập giá khống chế do quyền năng của sự phục sinh. Bởi vì Thiên Chúa ở đó hành động cho mọi người, lịch sử không những thay đổi chiều hướng, mà nhân loại còn khám phá ra gương mặt của Thiên Chúa mình cũng như gương mặt của chính mình.

 

Dâng hiến cho đến tận cùng (?)

 

Bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, Người mặc khải cho chúng ta một điều gì thuộc căn tính đặc biệt của Người ngay trong phong cách (modalité) chết của Người. Người là kẻ "vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã trở nên giống phàm nhân" (Pl 2,6) và chấp nhận lãnh cái chết của mình từ tay con người. Trong sự chấp nhận bị đóng đinh này, người ta thấy để lộ ra nội tâm (intériorité) của kẻ chịu đóng đinh. Người không coi việc từ bỏ địa vị thần linh của mình là đủ (tức là khước từ tất cả những gì trong việc mặc khải thần tính có thể là một ngăn trở để kết hiệp với nhân tính), Người không cho việc mặc lấy điều kiện nhân loại đến nỗi chấp nhận sự kết thúc cuối cùng bằng cái chết là đủ, nhưng Người, Ðức Chúa vinh hiển (1 Cr 2,8) sẽ để mình bị đóng đinh vào thập giá như một kẻ rốt hết trong các nô lệ chịu án tử.


Khi nhấn mạnh đến phong cách chết "và chết trên thập giá", Pl 2,8 nêu lên tính cách đặc thù của cái chết đó; cái chết này là một cái chết ô nhục người Con nhận lãnh vì tình yêu đối với Cha của Người và đối với chúng ta. Như vậy cái chết đó là cái chết hiến dâng (mort doblativité) nhờ đó tỏ bày tình yêu của Con đối với Cha và đối với chúng ta. Ðức Giêsu chấp nhận làm một người bị chúc dữ (trước mắt những người Do Thái), làm một kẻ ngu dại (trước mắt những người Rôma), đang khi Người là kẻ được Thiên Chúa chúc phúc, là đấng Mêsia, là người Con, kẻ cho ta hưởng muôn vàn ân phúc (Ep 1,3). Khi dùng cái chết trên thập giá để mặc khải một sự dâng hiến đi tới chỗ tột cùng của nhục nhã và đau khổ, Người lật đổ mọi tiên thức (précompréhension) về Thiên Chúa và về con người.


Hơn nữa, qua nội tâm của Người hoàn toàn phó dâng, Người hoà giải mỗi ngườivà mọi người không trừ ai với Thiên Chúa và với nhau. Người cũng hoà giải các hữu thể trên trái đất và trên trời. Ðấng đã hoà giải tất cả là Ðấng đã dựng nên tất cả: lịch sử gởi trả chúng ta về nguồn cội, về cuộc sáng tạo. Biến cố thập giá có một tầm mức vũ trụ: tất cả tạo thành đều được hành động của Ðức Kitô trên thập giá đụng chạm đến. Như vậy không chỉ có một sự đi xuống của Thiên Chúa với nhân loại, nhưng cũng có một sự đi lên trong đó Ðức Kitô cho chúng ta tham dự từ bên trong vào cuộc đi lên của Người với Cha. 

 

Tình yêu của Cha được tỏ bày

 

Gương mặt của Thiên Chúa cũng được mặc khải nơi đấng bị đóng đinh. Thực vậy, vị Thiên Chúa tỏ mình ra không phải là Thiên Chúa của giận dữ, nhưng là Ðấng dấn thân trong thân phận con người đến nỗi chấp nhận cái chết, chết trong người Con của Người. Thiên Chúa đã chọn đi qua con đường thập giá và lệ thuộc vào lịch sử thế giới để tỏ mình ra (1 Cr 1,21). Thập giá được trồng rất cụ thể và vững chắc trên mặt đất. Ðó là một nơi tỏ bày sự dâng hiến của Con mà cũng là của Cha. Do đó thập giá là một cuộc thần hiển (théophanie) thực sự với tất cả mức độ Con làm hiển thị tình yêu của Cha,tình yêu được tỏ bày nhờ hy tế Cha thực hiện nơi Con.


Ðặc tính lạ lùng này trong ý định của Thiên Chúa chỉ có thể hiểu được trong biến cố thập giá nhờ ánh sáng phục sinh. Không những thập giá nói lên sự hoàn tất của Kinh Thánh mà còn mặc khải ý nghĩa của Kinh Thánh. Thập giá chẳng là chữ "tau" đó hay sao, mà chữ "tau" là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái Do thái và như vậy cũng là kết thúc của nó? Tất cả đã được nói ra, tất cả mọi lời tiên tri về lòng thương xót của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm. Chắc chắn, sự ứng nghiệm được thực hiện cách bất ngờ. Nhưng khía cạnh này rất thường bị xem nhẹ và những khẳng định liên quan đến sự giận dữ, món nợ, sự công chính hoá đã trở nên quan trọng đến mức chúng đã che khuất mất ý định lạ lùng của Thiên Chúa, cho dù Phaolô đã nói rõ điều này bằng cách sử dụng từ ngữ "mầu nhiệm". Ngôn ngữ của thập giá mặc khải cách độc đáo và đặc biệt sự hy sinh của Con và của Cha. Mọi kitô hữu đều được mời gọi thể hiện hai sắc thái này trong cuộc sống của mình.

 

Loan báo đấng chịu đóng đinh

 

Người tín hữu là người tiếp nhận lời loan báo về đấng chịu đóng đinh, chấp nhận và làm chứng cho sự việc này. Phaolô tuyên bố ngài "không muốn biết gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh" và ngài lãnh trách nhiệm đi loan báo trước cả việc ban phép rửa tội (1 Cr 1,17). Một sự loan báo như thế phải không ngừng được đổi mới bởi vì nó có nguy cơ bị lãng quên, có khi bị loại bỏ nữa. Tín hữu Corintô không chia rẽ sao khi công bố mình thuộc về người này hay người khác trong số các thủ lãnh của mình (1 Cr 1,10-16) và tín hữu Galát đã chẳng chạy theo một Tin Mừng thứ hai sao, cho dù họ "thấy hình ảnh Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt" (Gl 1,6; 3,1)?


Ðiều thập giá nhắc nhở thì thuộc phạm vi kinh nghiệm chứ không thuộc trật tự suy tư hay ý thức hệ. Niềm tin vào Ðức Kitô đi ngang qua việc chấp nhận cuộc Vượt Qua của Người và sẽ luôn là chướng kỳ và điên rồ cho tất cả các nền văn hoá cũng như niềm tin ấy đã là chướng kỳ và điên rồ cho thế giới Hy Lạp vì một nền tảng như thế thật bất lực và phi lý. Khía cạnh gai chướng của ý định Thiên Chúa là yếu tố cơ bản trong việc đưa thập giá vào lịch sử. Nếu thập giá chỉ có ý nghĩa bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng đã sống lại, - vì không có sự sống lại Ðức Giêsu chỉ là một kẻ chết treo được ghi vào danh sách hàng ngàn người đã bị đóng đinh trong thời Cổ đại -, thì theo sự khôn ngoan của thế gian, thập giá vẫn là khổ hình mà một Thiên Chúa thánh thiện không thể nào phải chịu. Khía cạnh này của lời loan báo là tuyệt đối đến mức tạo thành động lực cho mọi việc truyền giáo: "Ðức Kitô đãchẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 17). Nội dung của việc truyền giáo nằm nơi ngôn ngữ của thập giá; ngôn ngữ này hoàn toàn tùy thuộc vào Ðức Giêsu Kitô trong khía cạnh khách quan và ý nghĩa của việc Người mặc khải.

 

Biết Người

 

Việc loan báo đấng chịu đóng đinh được liên kết với một sự hiểu biết không theo kiểu khai tâm hay ma thuật. Nó lật đổ những con đường đi tới Thiên Chúa mà từ nay được mở ra cho mọi người. Sự hiểu biết không còn là sở hữu mà lần hồi những người Do Thái và Hy Lạp tự tạo ra cho họ (1 Cr 1,21-25), như vậy là bắt Thiên Chúa phải đi qua các lối đường của họ. Thập giá có một nhiệm vụ mặc khải bởi vì thập giá mở ra một sự hiểu biết mới về Thiên Chúa. Bằng cách làm nổ tung những nền văn hoá khi chúng mưu đồ nắm chắc sự hiểu biết của mình và áp đặt nó, thập giá giới thiệu một ngôn ngữ mới, nghịch với mọi hệ thống và mọi khôn ngoan.


Bởi đó cho nên làm chứng về thập giá không phải là cười nhạo các nền văn hoá, nhưng đó là vượt qua chúng trên cây gỗ thập giá: cây gỗ này được trồng xuống đất nhưng sự cao cả của nó sẽ vươn cao hơn chúng. Sự làm chứng đạt được mức độ của nó trong biến cố Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh thập giá chứ không phải trong kinh nghiệm của thế gian, bởi vì kinh nghiệm của thế gian, do đã chất đầy ý nghĩa, chỉ có giá trị qua kinh nghiệm của thập giá. Thiên Chúa có khinh chê các nền văn hoá không? Chắc chắn là không, bởi Thiên Chúa đáp ứng sự tìm kiếm của chúng, nhưng một cách bất ngờ. Ðối với những người Do Thái tìm kiếm những dấu chỉ, thì họ được thấy một kẻ bị treo. Ðối với những người Hy Lạp quan niệm sự khôn ngoan theo hình ảnh của một lý trí xơ cứng, Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra, nơi thế giới này, trong sự nghịch thường của siêu việt tính của Người. 

 

Chịu đóng đinh với Ðức Kitô

 

Trong Rm 6,6, Phaolô công bố rằng "con người cũ đã bị đóng đinh thập giá với" Ðức Kitô. Thập giá là một điều khó hiểu đến nỗi phải có sự táo bạo của ngôn ngữ để diễn tả. Phaolô luôn mô tả đời sống kitô hữu bằng những từ ngữ sự sống, ân ban, ân sủng, sự dồi dào, sự kết hợp với Ðức Kitô (Rm 5-8) hơn là bằng những từ ngữ phán xét mà người ta đã gán cho một tầm quan trọng quá lớn khi tách những từ ngữ ấy ra khỏi bối cảnh của sự nhưng không và của sự sống, trong bối cảnh này chúng như thể là bị chìm ngập. Người kitô hữu là kẻ nhận lãnh ân huệ được ban cho họ trong sự chết của Ðức Kitô, một lần cho tất cả và mãi mãi.


Như vậy người Kitô hữu nhận ra căn tính cá nhân (identité personnelle) của mình trong Ðức Kitô, bởi vì với tư cách là con người mà Người là Con. "Bị đóng đinh thập giá với" không có nghĩa là hành hạ thân xác để đạt tới một lý tưởng - bởi trong trường hợp này, người ta trở lại với lề luật - nhưng đây là sống trong một tương quan kết hiệp với đấng chịu đóng đinh, bởi vì đấng chịu đóng đinh "đã hủy diệt thân xác tội lỗi" (Rm 6,6) một lần cho tất cả. Những từ ngữ này không diễn tả cái gì khác hơn là tình yêu được Ðức Chúa bày tỏ trên thập giá mà người tín hữu được mời đáp trả trong cùng một đà yêu thương và dâng hiến.

 

Vác thánh giá của mình hay "mang những thương tích của Ðức Giêsu"?

 

Không có văn bản nào của Phaolô đòi hỏi người kitô hữu phải vác thập giá mình như những lời của Ðức Giêsu được các sách Tin Mừng thuật lại (Mc 8,34; Mt 10,38). Ngược lại, Phaolô mời các tín hữu "đóng đinh vào thập giá xác thịt và những ham muốn xác thịt của mình" (Gl 5,24), "mang những thương tích của Ðức Giêsu" (Gl 6,17). Phải chăng điều đó có nghĩa là xác thịt tự nó là xấu xa phải quăng đi để cứu vớt tinh thần? Thực ra, tình yêu đối với Ðức Kitô phải in sâu trong xác thịt (chair),trong xác thể tính (corporéité), nếu không đó là thứ tình yêu ý thức hệ và mất đi sự qui chiếu về ngôn ngữ của thập giá. Có một cách loan báo Tin Mừng và sống Tin Mừng biến thập giá của Ðức Kitô thành hư vô (1 Cr 1,17); đó là cách tách riêng lời nói và hành động. Bởi đó cho nên sự qui chiếu về xác thịt là chủ yếu.


Trong khi ngày trước phép cắt bì là dấu giao ước thì ngày nay toàn bộ xác thịt được kêu gọi nhận lãnh "dấu" của Ðức Chúa để bày tỏ Người. Trong Ðức Kitô, có sự mặc khải về Thiên Chúa mà tình yêu là vô cùng, trong người kitô hữu, có sự hiển linh (épiphanie) của Ðức Kitô: "Tôi bị đóng đinh vào thập giá, không phải tôi sống, chính Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Và đó không phải là những từ ngữ: Phaolô trình bày cho các kitô hữu bắt chước, không phải do kiêu căng, nhưng bởi vì ngài cảm thấy cần thiết phải loan báo Tin Mừng và một sự loan báo như thế chỉ mặc lấy đầy đủ chiều kích rộng lớn mà nó phải có trong sự mạch lạc (cohérence) giữa một lời được định hình bởi dấu thập giá của Ðức Kitô với một sự sống được đánh dấu bởi tính nghịch thường của Ðức Kitô đấng là sự sống qua cái chết. (x. 1 và 2 Cr).


Người Kitô hữu chiếm hữu một sự tự do đích thực đối với thế gian. Tuy vẫn ở trong thế gian, người kitô hữu làm cho thế gian đi vào trong chuyển động dâng hiến (mouvement doblativité) của Ðức Kitô. Do đó, đối với Phaolô, người kitô hữu có thể nói rằng những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức (Cl 1,24). Không còn thiếu gì trong cuộc thương khó của Ðức Kitô và tất cả các bản văn của vị Tông đồ đều minh chứng điều này. Nhưng trong người tín hữu, tất cả không phải là sự trong sáng tinh ròng của tình yêu mà họ được yêu. Chính sự ao ước cho hoàn thành này thúc đẩy Phaolô nói rằng những thử thách liên kết với thân phận làm người - kể cả thử thách lớn nhất là sự chết - cho phép ngài ghi trong xác thịt mình sự sống của Ðức Kitô.

 

Giáo Hội

 

Ðiều gì đúng cho trường hợp cá nhân thì cũng đúng cho trường hợp cộng đoàn. Thập giá có một vai trò giáo hội bởi vì thập giá hoà giải những nhóm đối nghịch, Do Thái và Lương Dân, thành một khối duy nhất, triệt để mới mẻ, đó là Giáo Hội (Ep 2,16). Muốn làm điều này, cần phải hủy diệt hận thù là bức tường chia rẽ. Ðó cũng là công trình của Ðức Kitô trên thập giá bởi vì thập giá hủy diệt tham vọng của lề luật hay của sự khôn ngoan là đối chọi người Do Thái và Hy Lạp trong một ngoại giới tính (bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Cộng đoàn những kẻ tin là một cộng đoàn những người được kêu gọi (église= ek kalein=kêu gọi), theo hình ảnh của đấng kêu gọi (1 Cr 1,26). Cũng như cá nhân, cộng đoàn phải phản chiếu sứ điệp mà cộng đoàn có trách nhiệm loan báo; nếu không, diễn từ của mình sẽ thành vô ích và bất nhất.

 

Ngôn ngữ của thập giá

 

Ngôn ngữ của thập giá là ngôn ngữ của Thánh Thần về nội dung cũng như về các phương cách. Ngôn ngữ này phê bình tất cả mọi nền văn hoá đi tìm kiếm một sự khôn ngoan chủ trương không cần đến Thiên Chúa. Với tư cách là ngôn ngữ của Thánh Thần, ngôn ngữ của thập giá chỉ có thể diễn tả qua những nghịch lý, như những nghịch lý của sức mạnh và yếu đuối hay là qua những cách diễn tả có thể xem ra đối nghịch nhau.


Ngôn ngữ của thập giá là một ngôn ngữ mặc khải, vừa của Con vừa của Cha, bởi vì thập giá là nội tại đối với biến cố phục sinh và là thập giá của Đức Chúa vinh hiển. Thập giá có tính thần hiển (théophanique) đối với Cha, có tính hiện sinh (existentielle) đối với Con và có tính tâm linh (spirituelle) đối với kitô hữu. Phaolô không có ý định đề cao cái chết hay sống trong ảo tưởng nhưng chỉ muốn rút ra những hệ lụy của biến cố phục sinh trong lịch sử, trong lịch sử của mỗi người, những hệ lụy đi ngang qua cuộc Vượt Qua một cách tất yếu. Ðó là sức mạnh trọng yếu và sinh động của ngôn ngữ thập giá được hiểu dưới ánh sáng của cuộc phục sinh, ngoài nó ra thì ngôn ngữ của thập giá không có nghĩa gì cả.

 

Chantal Reynier

 

Câu hỏi thảo luận:

"Ngôn ngữ của thập giá" biểu lộ gương mặt nào của Thiên Chúa và gương mặt nào của con người ?

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Giảng lễ Hôn Phối :

CĂNG BUỒM

I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.

           

            Chúng ta đọc : Mc 4,35-41.

 

            Chúng ta vừa được nghe đoạn Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió trên biển cả theo lời cầu cứu của các môn đệ Ngài. Chúa Giêsu để cho sóng gió xẩy ra để thử thách niềm tin của các môn đệ, và trình bầy sứ vụ cứu thế của Ngài, đồng thời cũng là dịp củng cố niềm tin cho các môn đệ Ngài.

 

            Biển, theo quan niệm người Do thái, là nơi hỗn mang. Từø đó phát xuất những sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa và con người. Việc Chúa dẹp yên sóng gió trên biển tỏ bầy quyền năng của Chúa trên sự dữ. Trên biển trần gian này, không thiếu gì nhữmg sóng gió của gian nan thử thách làm cho con người phải chao đảo, nhưng tất cả những sự dữ đó không thể vượt quá quyền năng của Thiên Chúa.

 

            Việc Chúa Giêsu nằm ngủ gợi đến sự vắng bóng của Chúa. Chúa nằm ngủ trên thuyền là hình bóng Hội thánh tại thế : vẫn có Chúa hiện diện nhưng bề ngoài chúng ta không cảm thấy. Sự hiện diện của Chúa nơi Hội thánh chỉ có thể nhìn thấy qua các biến cố và qua con mắt đức tin. Cuộc đời của từng người chúng ta đôi lúc như thiếu vắng Chúa, nhất là tnhững cơn gian nan thử thách. Chúng ta có cảm giác như mình bị bỏ rơi và muốn thưa với Ngài:”Lạy Chúa, Chúa ở đâu”? Nhưng Chúa chỉ trả lời trong ơn thánh và đức tin :”Ta vẫn ở bên con. đừng sợ”.

 

            Việc Chúa truyền cho sóng gió phải yên lặng gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng Chúa là Đấng toàn năng trên mọi tạo vật. Mọi loài, mọi vật phải vâng phục Ngài. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hãy kêu cầu Chúa, Ngài sẽ đến giúp như xưa Chúa đã đáp lời kêu cứu của các môn đệ mà truyền cho sóng gió phải yên lặng. Có Chúa trong đời ta còn sợ gì ?

 

                                                Truyện : Thi sĩ Lord Tennyson.

            Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với Đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi:”Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không”? Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường, nói:”Như mặt trời đối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô đối với tôi cũng vậy”(Góp nhặt).

 

II. CÁNH BUỒM TRƯỚC GIÓ.

           

            1. Tức cảnh sinh tình.

 

            Trong Thánh lễ buổi sáng, tôi đã được chia sẻ bài Tin mừng này, trở về nhà, tình cờ tôi được xem một tấm ảnh chụp mầu một còn thuyền đang lướt sóng trên biển cả vào một buổi chiều với một cánh buồm căng gió. Đó là bức ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp, muốn xem mãi.

 

            Sau này có dịp ra Vũng tầu, tôi cũng có dịp xem tận mắt một cánh buồm lướt sóng trên biển cũng vào một buổi chiều tà. Cảnh vật này này làm tôi nhớ đến bài hợp xuớng “ Rakhơi” của nhạc sĩ Hải Linh mà tôi đã có dịp điều khiển dàn hợp xuớng Thông reo, vừa ngâm nga, vừa xem cảnh, thật là thú vị.

 

            Ngày nay, khoa học tiến bộ hơn, đời sống giầu có hơn nên người ta thường dùng máy nổ chứ không dùng cánh buồm nữa. Tuy thế, ngày nay người ta vẫn còn tổ chức đua thuyền buồm, một cuộc thi rất đẹp mắt. Ngoài ra, môn thể thao lướt ván vẫn còn cần đến cánh buồm.

 

            2. Một mối liên tưởng.

 

            Đúng là “Tức cảnh sinh tình”. Đứng trước một cảnh vật tuyệt đẹp, người nghệ sĩ không thể nào ngăn được những cảm hứng gợi lên trong tâm hồn, tôi đã sáng tác bài “Cánh buồm trước gió”. Và cũng trong dịp đó, tôi lại phải chứng kiến cảnh một gia đình tan vỡ, chồng một nơi, vợ một nẻo, con cái bơ vơ không có chỗ nương tựa.

 

            Trước cảnh cánh buồn căng gió và một gia đình tan vỡ, tôi tự nhiên nảy ra một vài tư tưởng mà tôi muốn trình bầy ra dưới đây :

 

            * Gia đình là chiếc thuyền .

            Tôi coi gia đình là chiếc rhuyền lênh đênh trên biển đời với một chiếc buồm căng gió đang ra khơi. Thuyền chỉ có thể lướt trên mặt nước nhờ cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ có tác dụng khi có gió thổi.

 

            * Cánh buồm là sự cố gắng.

            Tôi coi cánh buồm là sự cố gắng không ngừng của vợ chồng. Sự cố gắng của vợ chồng phải đồng đều. Thiếu cố gắng là không có cánh buồm hay buồm bị gẫy. Buồm phải luôn vươn lên đón gió, tức là vợ chồng vừa cố gắng, vừa đón nhật sự trợ giúp của Chúa.

 

            * Gió là ơn Chúa trợ giúp.

            Thánh Phaolô khi bị cám dỗ quá sức đã cầu khẩn Chúa trợ giúp, Chúa đã trả lời :”Ơn Ta đã đủ cho con”. Ơn Chúa ban cho chúng ta khi nào cũng đầy đủ, tùy theo công việc và tùy theo hoàn cảnh.

            Có hai thứ ơn Chúa :

                        - Ơn thánh hoá : được ban cho ta khi ta sạch tội trọng, có ơn nghĩa cùng Chúa.

                        - Ơn trợ giúp (ơn hiện sủng) : khi nào Chúa cũng ban đầy đủ, nếu cần Chúa

                           ban thêm cho từng trường hợp.

 

            * Tương quan giữa buồm và gió :

            Gió chỉ có tác dụng với thuyền khi buồm được căng lên. Nếu buồm không được căng lên thì gió chỉ đi qua, không thể làm cho thuyền di chuyển được. Cũng thế, ơn Chúa xuống nhiều trên ta mà ta không cố gắng tận dụng thì ơn Chúa sẽ qua đi một cách vô ích, không ảnh hưởng gì tới cuộc sống gia đình.

 

            * Hai mái chèo :

            Ngoài cánh buồm ra, chiếc thuyền còn được hỗ trợ bằng hai mái chèo. Khi buồm không thuận gió, người ta dùng đến hai mái chèo để đẩy con thuyền đi. Hai vợ chồng được ví như hai mái chèo : trong cơn gian nan thử thách, không thuận buồm xuôi gió, vợ chồng phải gồng mình lên mà chèo chống. Nhưng cứ yên trí, Chúa ngồi ở đàng lái mà lèo lái con thuyền gia đình ta đi đến đích bình an.

 

III. SÓNG GIÓ VÀ CON THUYỀN.

 

            Ai cũng phải công nhận đời sống gia đình rất phức tạp, cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng gặp cảnh thuận buồm xuôi gió :

                                    “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa”(Kiều)

nhưng có những lúc gió chuớng, có những con sóng tạt vào thuyền, đó là những lúc bị gian nan thử thách, mấy gia đình mà được bình an thoải mái. Người Ả rập có kinh nghiệm về vấn đề này khi nói:”Hôn nhân là một cái bao trong đó có 99 con rắn và một con lươn, ai có thể thọc tay vào đó” ?  Phụ hoạ vào đó, ông Ben Jonson nói :”Hôn nhân là một cuộc  xổ số”.

 

            Tuy thế, muốn cho gia đình được bằng an hạnh phúc, không phải là một điều khó lắm.  Người ta tường nói : mỗi công việc đều có phương pháp của nó. Một hình ảnh đẹp gợi lên cho tôi ý tưởng đó. Tôi thấy một mẫu ảnh giấy vẽ cảnh hai vợ chồng đang cùng nhau vác cây thập giá lên dốc, có vẻ khó khăn lắm, nhưng có Chúa Giêsu,với hình bóng mờ mờ, đi đàng sau đang nâng thập giá lên.

 

            Tấm ảnh ấy có ý nói rằng : hôn nhân được coi như là một thập giá Chúa trao cho mà vợ chồng đang phải khó nhọc vác đi lên, nhưng họ không cô đơn lạc lõng vì có Chúa đang nâng đỡ.

Nhưng nếu gia đình nào không chịu vác thập giá : hoặc vợ hoặc chồng hoặc cả hai không chịu vác hay cưa bớt cây thánh giá đi, thì gia đình đó sẽ thất bại.

 

                                                Truyện : Cưa bớt thập giá.

 

            Một đoàn người vác thập giá của mình, vác đi cực nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Có một người vác một cây thập giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc. Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đến trước một vực thẳm : tại đây không có một cây cầu  nào để sang bên kia, là nơi được sống cạnh Chúa, và hưởng niềm vui muôn đời.

            Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay, chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với niềm tuyệt vọng (Thiên Phúc).

 

            Đọc xong câu chuyện ngụ ngôn trên, chúng ta thấy Chúa đã cân sức của từng người, có sức vác bao nhiêu thì Chúa trao cho bấy nhiêu, cứ bằng lòng với hoàn cảnh của mình, đừng đứng núi nọ mà trông núi kia cao. Ai trong chúng ta đã không một lần gặp đau khổ, thất vọng trong cuộc sống. Được tạo dựng để sống hạnh phúc nhưng đau khổ đã trở thành người bạn của cuộc sống. Điều đau khổ hơn nữa là chúng ta không thể hiểu được nguồn gốc của đau khổ.

 

            Đức Kitô đã đến trong thế gian. Ngài đã sống như một con người đau khổ:”Đức Giêsu Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một mẫu gương cho anh em dõi bước theo Ngài”(1Pr 2,21). Chết treo trên thập giá, Ngài đã biến thập giá thành chiếc cầu nối giữa sự chết và sự sống. Qua cái chết của Ngài, ánh sáng đã chiếu dọi vào từng nỗi khổ đau của con người:”Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”(Dt 2,18). Từ nay, thập giá không còn là chướng ngại trong cuộc sống, nhưng là con đường dẫn đến sự sống đích thực.

 

            Muốn có một gia đình hạnh phúc, chúng ta phải :

            - Cộng tác với ơn Chúa : Chúa không hành động một mình, cần phải có sự cộng tác của ta. Thánh Augustinô đã nói:”Khi dựng nên con, Chúa không cần đến con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác”.

            - Gia đình phải luôn cầu nguyện nhất là khi gặp những sự khó khăn. Hãy noi gương các môn đệ kều cầu Chúa cứu giúp khi gặp sóng gió bão táp, nhất là khi con thuyền sắp chìm. Chúa vẫn luôn ở kề bên chúng ta. Hãy lấy con mắt đức tin mà tìm ra Ngài.

 

“Lạy Chúa,

con biết rằng Chúa không bao giờ gửi đến cho con một cây thập giá nặng hơn sức mạnh, và dài hơn đôi vai của con. Thế nhưng, đã không biết bao nhiêu lần, con đã vội ném thập giá. Xin ban thêm sức mạnh để con vui vẻ tiến buớc theo Chúa. Amen (TP).

 

                                                                                                Lm Giuse Đinh lập Liễm

Mục lục

 

Sức khỏe gia đình

Táo bón tuổi già

Táo bón là tình trạng phân bị ngưng đọng nhiều ngày ở ruột già khiến phân trở nên khô, cứng, khó đi cầu.  Nếu 2 hoặc 3 ngày mới đi cầu, đi cầu không đều nhưng phân vẫn mềm, đi cầu dễ dàng vẫn xem là bình thường.

Bảo đảm thông nhuận đường đại tiện là một yêu cầu quan trọng để bài tiết kịp thời những cặn bả độc hại trong quá trình biến dưỡng của cơ thể để giữ gìn sức khoẻ. Ở người già, các hoạt động chức năng suy yếu, dương khí kém, tân dịch giảm thường dễ sinh táo bón. Nếu không được giải quyết kịp thời, táo bón có thể gây ra nội nhiệt, khí uất, khí nghịch và làm trầm trọng thêm các chứng bệnh tuổi già như nhức đầu, mất ngủ, áp huyết cao, tim mạch.  Một số trường hợp táo bón có thể do những nguyên nhân bệnh lý đặc thù cần được chữa trị riêng biệt như khối u, tắc ruột, bệnh lý ở tuỷ sống, nhiễm trùng. Ngoài ra, trong những trường hợp táo bón thông thường, người bệnh có thể áp dụng những biện pháp đơn giản sau đây để tự chữa trị.

Ăn thức ăn có nhiều chất xơ.

Nguyên nhân gây ra táo bón thường gặp nhất là do ăn nhiều thức ăn tinh lọc, phân  ít.  Tổng lượng phân không đủ kích thích những thụ cảm ở thành ruột thẳng và cơ vòng hậu môn để tạo phản xạ đi cầu.  Do đó, cần ăn thức ăn có nhiều chất xơ.  Chất xơ có nhiều trong rau, quả, củ và ngủ cốc thô.  Chất xơ không những tạo thành chất bả mà còn kết dính những chất độc hại để đào thải ra ngoài, thu hút nước để tăng lượng phân, kích thích hoạt động của tế bào dịch nhầy ở thành ruột và tăng nhu động ruột.  Rau quả và ngũ cốc toàn phần không chỉ cung cấp nhiều chất xơ mà còn có hàm lượng cao những chất sinh tố, khoáng chất, chất chống oxy hoá có tác dụng bảo vệ tim mạch, phòng chống ung thư và nâng cao hệ miễn dịch.  Một số người già ăn quá ít cũng dễ dẫn đến táo bón.  Trường hợp nầy nên ăn dậm thêm khoảng 2 hoặc 3 trái chuối mỗi ngày vào giữa buổi, cách xa các bửa ăn chánh, để cung cấp đủ lượng chất xơ cần thiết. Chuối không những có nhiều chất xơ mà còn có tỷ lệ potassium cao và nhiều vi chất khác có tác dụng giảm stress, cải thiện thành mạch máu và làm giảm nguy cơ áp huyết cao, đột quỵ.  Sữa chua hoặc các chế phẩm từ rong biển cũng là những món ăn được khuyến khích cho mọi trường hợp táo bón. Thông thường, chỉ cần cải thiện chế độ ăn là có thể chống táo bón.

Thể dục, vận động.

Hoạt động đi cầu cần sự phối hợp của nhiều nhóm cơ ở vùng bụng.  Do đó,  năng vận động thân thể để gia tăng nhu động ruột và gia tăng trương lực cơ sẽ giúp cải thiện hoạt động ở ruột già.  Cách vận động đơn giản nhất là đi bộ, đi khoảng 30 phút mỗi ngày.  Đi từ chậm đến nhanh dần tuỳ theo điều kiện sức khoẻ của mỗi người.  Ngoài ra, người già nên thường xoa bóp.  Có thể áp 2 bàn tay vào nhau xoa chậm xoay tròn chung quanh vùng rốn để vừa có tác dụng kích thích tiêu hoá ở dạ dày vừa gia tăng nhu động ruột ở vùng ruột già.  Mỗi ngày nên thực hành 2 lần, mỗi lần xoa từ 5 đến 10  phút.

Bài tập căng cơ, co đầu gối, ép sát đùi.

Thực hành bài tập căng cơ, nhíu hậu môn, co đầu gối, ép sát đùi sau đây có tác dụng tăng cường chức năng nội tạng ở vùng trung tiêu, tăng trương lực cơ, chống táo bón và những chứng yếu liệt các cơ vùng sàn chậu ở tuổi già như bệnh trĩ, són tiểu, suy nhược sinh dục, sa nội tạng.  Thực hành: Nằm thoải mái trên giường, phản hoặc trên sàn nhà.  Hít vào, từ từ co chân phải lên cao, cong gập đầu gối, 2 bàn tay ôm lấy 2 cổ chân phải để ép sát cẳng chân và bắp chân về phía thân người trong khi nhíu chặt hậu môn.  Thở ra trong khi chân và tay trở về vị trí ban đầu, buông lỏng toàn thân.  Hít vào và đổi sang chân trái với cùng động tác.  Luân phiên hít vào và thở ra, mỗi bên khoảng 10 lần.  Mỗi ngày có thể tập một hoặc hai lần.

Tạo thói quen đi cầu.

Hoạt động đi cầu là một hoạt động sinh lý có tính phản xạ thần kinh.  Do đó, cần bồi dưỡng thói quen đi cầu bằng cách đi cầu theo một giờ nhất định trong ngày.  Cũng vì lý do nầy, mỗi khi có cảm giác cần đi cầu, không nên nín nhịn.

Uống trà thảo quyết minh.

Thảo quyết minh (TQM) là một vị thuốc nam thông dụng, giá lại rẻ.  Vị thuốc nầy có tác dụng thanh can, ích thận, an thần, nhuận trường.  Thuốc làm phân mềm, dễ đi cầu nhưng phân không lỏng và không gây đau bụng.  Ngoài ra, TQM còn cải thiện độ cholesterol trong máu và ngăn chận tình trạng ngưng kết tiểu cầu trong các bệnh tim mạch.  Gia đình có thể mua mỗi lần khoảng 500g, cho vào nồi (nồi đất càng tốt) sao đến khi hết nổ, bỏ vào lọ kín để dùng dần.  Sử dụng bằng cách hãm trong nước sôi, mỗi lần từ 6 đến 8g để dùng cả ngày thay nước uống. Với liều nhỏ, TQM có thể dùng hàng ngày như một loại trà dưỡng sinh mà không sợ gây tác dụng phụ.

Lương y VÕ HÀ

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

GẤU BÔNG CHO NGƯỜI LỚN

 

Con gái hai mươi tám tuổi của chị vừa chia tay chồng sau vài năm chung sống. Con gái ghé nhà thăm mẹ, kể rằng hôm qua tình cờ gặp hai bà lớn tuổi ở tiệm giặt và nghe lõm họ trò chuyện. Bà này hướng dẫn bà kia mỗi khi giặt gấu bông hãy bỏ vào trong áo gối rồi buộc chặt miệng áo gối lại. Như thế có thể bỏ vào máy giặt sạch mà lông gấu không hỏng. Bà lại tâm sự từ khi chồng qua đời đến nay, những lúc cô đơn hay lo lắng, bà luôn áp chặt gấu bông vào mặt thật lâu, cho đến khi cảm thấy tâm hồn bình an. Bà khuyên bạn già cũng nên thử đi, các con gấu bông bao giờ cũng hiệu nghiệm với người cô đơn cần an ủi.

 

Con gái chị muốn áp dụng lời khuyên ngẫu nhiên lọt tai. Thế nên giờ đây chị và con gái  đang giật mấy con gấu bông. Những đồ chơi cũ từ thời con chị còn bé dại mà bấy lâu chị vẫn cất kỹ trong ngăn tủ.

 

Mấy con gấu đã giặt xong, sấy khô. Chị vuốt ve, mơn trớn lớp lông, vàng hoe, mịn màng, vỗ nhẹ tay lên gò má tròn trĩnh với gương mặt tinh nghịch rất đáng yêu, và chợt ước gì có thể làm giống như ngày xưa, chị bế con gái đặt vào giường, chèn gấu bông sát vào người con, khi con chị vòng tay ôm chặt bạn gấu, chị âu yếu nựng nịu một bên má của gấu, dặn dò gấu hãy ngoan, đừng quấy khóc làm chị gấu không ngủ được.

 

Con gái chị trở về nhà riêng mang theo mấy người bạn cũ đã thơm tho, sạch sẽ. Chị mong con mình sẽ bình an với cuộc sống mới dẫu bất chợt hóa ra lẻ loi. Chị biết đêm nay và nhiều đêm  nữa con chị sẽ áp chặt một bạn gấu vào má thật lâu để xoa dịu nỗi lòng. Có thể con chị sẽ trò chuyện với gấu như khi xưa  đã từng huyên thuyên đủ chuyện với gấu. Có thể con chị sẽ  mỏi mòn  rồi ngủ thiếp đi, sáng dậy sẽ thấy mặt gấu ướt đẫm nước mắt. Có thể con chị sẽ giả giọng trẻ con đớt đát để bảo gấu : “ Gấu khóc hả ? Gấu thương chị hả ? Gấu tội nghiệp chị hả ?

 

Chị cắn chặt môi khi cảm thấy mắt mình cay cay. Ngày xưa, con gái còn nhỏ, chị cũng từng trò chuyện với gấu trước mặt con. Đó là những lúc chị khen gấu hay mắng gấu để gián tiếp khuyên dạy con. Và bây giờ chị cũng muốn nói với gấu, gởi gắm gấu tấm lòng của chị. Gấu ơi, hãy chăm sóc cho chị gấu nhé. Chị đang cần gấu an ủi, đỡ nâng nhiều lắm đấy. Hãy ôm chị cho chặt, hãy áp chặt má và khóc với chị cho thỏa thích, cho vơi đi nỗi lòng trĩu nặng. Hãy nhắc chị nhớ rằng gấu rất thương chị, và mẹ cũng rất  yêu chị, thương chị. Mẹ cầu nguyện cho chị mỗi sáng thức dậy, thấy nắng mai hôm nay đẹp hơn ngày hôm qua. Cứ như thế, và chị sẽ vững vàng bắt đầu một ngày mới, sửa soạn cho cuộc sống mới của chị. Mẹ cám ơn gấu.

 

Mượn ý từ “Mashing teddy bears”  của Jean Bole ( 1999).

Dũ Lan Lê Anh Dũng

Mục lục